Đây có phải là triết lý cho Giáo dục Việt Nam?

09/09/2016 06:12
Trần Trí Dũng
(GDVN) - Nếu ai đó nói rằng ở Việt Nam chưa có triết lý giáo dục thì tôi cho rằng điều đó là không đúng.

LTS: Trong bài viết “Gọi tên triết lý giáo dục” đăng trên tờ Thời báo Kinh tế Sài Gòn, 5/8/2014, Tiến sĩ Giáp Văn Dương cho rằng: Hiện nay triết lý giáo dục vẫn đang được xem là điểm bế tắc của hệ thống giáo dục Việt Nam.

Mọi bất cập hiện có và sự thất bại của các cuộc cải cách giáo dục trong mấy chục năm qua đều có thể truy nguyên về việc thiếu vắng một triết lý giáo dục đúng để dẫn dắt.

Việc rốt ráo đi tìm triết lý giáo dục Việt Nam vẫn là một đề tài gây tranh cãi trong xã hội.

Vậy thực chất triết lý giáo dục là gì? Chúng ta có cần một triết lý giáo dục? Nếu có, đó là gì?, xoay quanh đề tài này thầy giáo Trần Trí Dũng đã có bài viết thể hiện quan điểm của mình.

Tòa soạn trân trọng gửi đến độc giả!

Các quan điểm khác nhau về triết lý giáo dục Việt Nam

Gần đây có nhiều bài báo luận bàn về triết lý giáo dục Việt Nam với rất nhiều các quan  điểm khác nhau.

Vì thế, bài viết xin được trao đổi thêm về vấn đề này trong một góc nhìn để chúng ta có cái nhìn toàn diện hơn về triết lý giáo dục Việt Nam, đặc biệt trong công cuộc đổi mới nền giáo dục nước nhà.

Nói về triết lý, từ điển Việt Nam (Viện ngôn ngữ học, 2004) định nghĩa:

"1.Triết lí (hay triết lý) là quan niệm chung của con người về nhân sinh và xã hội;

2. Đó là thuyết lí về những vấn đề nhân sinh và xã hội".

Giáo dục Nhật Bản tạo ra những con người biết cống hiến cho đất nước trên nền tảng “kỷ luật thép” và sự chia sẻ gánh nặng với mọi người xung quanh (Ảnh: plo.vn).
Giáo dục Nhật Bản tạo ra những con người biết cống hiến cho đất nước trên nền tảng “kỷ luật thép” và sự chia sẻ gánh nặng với mọi người xung quanh (Ảnh: plo.vn).

Như thế, muốn hiểu thế nào là triết lý thì ta lại phải hiểu nhân sinh là gì?

Do đó, theo tôi, định nghĩa này mới chỉ là tiếp cận ban đầu về mặt khái niệm mà chưa đề cập đến ý nghĩa chính xác một cách khái quát và đầy đủ. 

Nói đến triết lý, ta hiểu đó là tổng thể những quan điểm, phương châm thể hiện tư tưởng chỉ đạo theo chiều rộng và chiều sâu, quy định chuẩn mực dùng làm tiêu chí cho mọi hành động của con người, bao hàm sự tương quan trong một lĩnh vực nào đó, trong sự phát triển của xã hội.

Ví dụ triết lý bóng đá, triết lý giáo dục.

Nói đến triết lý giáo dục Việt Nam, nếu ai đó nói rằng ở Việt Nam chưa có triết lý giáo dục thì tôi cho rằng điều đó là không đúng.

Do trong một thời gian dài chúng ta phải tập trung cho các cuộc chiến tranh chống lại sự xâm lược, giải phóng dân tộc nên giáo dục đã có một lỗ hổng lớn.

Suốt gần một nghìn năm bị Hán hóa, giáo dục Việt Nam bị ảnh hưởng lớn bởi Nho giáo. Các  quan quan niệm về con người và giáo dục của Khổng Tử, quan niệm về Đức trị và Pháp trị trong Nho giáo đã có sự ảnh hưởng sâu rộng đến giáo dục của nước ta, đặc biệt là thời phong kiến.

Đây có phải là triết lý cho Giáo dục Việt Nam? ảnh 2

Triết lý giáo dục - Việt Nam đã có chân lý này hay chưa?

Thậm chí, ảnh hưởng của Nho giáo còn tác động cho tới ngày nay với những câu khẩu ngữ như "Tiên học lễ, hậu học văn" hay " Cái gốc của sự học là học làm người" theo quan niệm của người Trung Quốc.

Đó cũng được coi như những cơ sở đầu tiên hình thành triết lý giáo dục.

Ta cũng có thể bắt gặp những khẩu ngữ mang tính triết lý cho giáo dục được hình thành trong các câu tục ngữ hay danh ngôn như "Học thầy không tày học bạn", "Học thầy học bạn, vô vạn phong lưu", "Học, học nữa, học mãi"...

Cho tới khi hòa bình lập lại sau hai cuộc chiến lớn chống đế quốc và thực dân, giáo dục đã được quan tâm nhiều hơn.

Tại bản Hiến pháp đầu tiên thời kỳ độc lập và xây dựng Tổ quốc, là Hiến pháp năm 1980 đã quy định:

"Nền giáo dục Việt Nam không ngừng được phát triển và cải tiến theo nguyên lý học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn liền với xã hội, nhằm đào tạo có chất lượng những người lao động xã hội chủ nghĩa và bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau" (Điều 40).

Có thể nói đây là một quy định mang tính triết lý đầu tiên cho Giáo dục Việt Nam.

Đến thời kỳ đổi mới, giáo dục và đào tạo đã được xem là quốc sách hàng đầu, điều này đã được ghi nhận tại Điều 35 Hiến pháp năm 1992.

Cùng với quy định đó, Hiến pháp 1992 tiếp tục khẳng định:

"Nhà nước phát triển giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài".

Bên cạnh đó, bản Hiến pháp này còn quy định cụ thể hơn:

"Mục tiêu của giáo dục là hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân; đào tạo những người lao động có nghề, năng động và sáng tạo, có niềm tự hào dân tộc, đạo đức, ý chí vươn lên góp phần làm cho dân giầu nước mạnh, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc".

Đây là những tiền đề, cơ sở đầu tiên mang tính triết lý để xây dựng một nền giáo dục độc lập và tự chủ sau này.

Cùng với sự đổi mới và phát triển chung trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, các Luật và các chủ trương của Đảng và Nhà nước cũng được ban hành.

Văn bản luật đầu tiên đặt cơ sở cho việc phát triển và đi vào ổn định của nền Giáo dục là Luật phổ cập giáo dục Tiểu học năm 1991. Những quy định mang tính triết lý cho giáo dục được thể hiện trong Luật này như:

"Giáo dục Tiểu học là bậc học nền tảng của hệ thống giáo dục quốc dân, có nhiệm vụ xây dựng và phát triển tình cảm, đạo đức, trí tuệ, thẩm mỹ và thể chất của trẻ em, nhằm hình thành cơ sở ban đầu cho sự phát triển toàn diện nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa" (điều 2);

"Giáo dục Tiểu học phải bảo đảm cho học sinh nắm vững các kỹ năng nói, đọc, viết, tính toán, có những hiểu biết cần thiết về thiên nhiên, xã hội và con người; có lòng nhân ái, hiếu thảo với ông bà, cha mẹ, yêu quý anh chị em; kính trọng thầy giáo, cô giáo, lễ phép với người lớn tuổi; giúp đỡ bạn bè, các em nhỏ; yêu lao động, có kỷ luật; có nếp sống văn hoá; có thói quen rèn luyện thân thể và giữ gìn vệ sinh; yêu quê hương đất nước, yêu hoà bình" (điều 3). 

Cho tới năm 2005, văn bản pháp luật quy định khá đầy đủ về giáo dục ra đời, đó là Luật Giáo dục.

Trong văn bản này đã có nhiều những quy định thể hiện tính triết lý trong giáo dục và sau đó đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009.

Cụ thể, điều 2 quy định về mục tiêu của giáo dục:

"Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc", điều 3 quy định tính chất và nguyên lý giáo dục:

"Nền giáo dục Việt Nam là nền giáo dục xã hội chủ nghĩa có tính nhân dân, dân tộc, khoa học, hiện đại, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng;

Hoạt động giáo dục phải được thực hiện theo nguyên lý học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, lý luận gắn liền với thực tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội".

Cùng với các quy định đó là những quy định: "Học tập là quyền và nghĩa vụ của công dân", "Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển" cũng bao hàm tính triết lý cao. Bên cạnh đó, Luật Giáo dục còn quy định những quan điểm và mục tiêu cụ thể đối với tất cả các cấp học và bậc học trong hệ thống giáo dục quốc dân mang đậm tính triết lý.

Đây có phải là triết lý cho Giáo dục Việt Nam? ảnh 3

Việt Nam đứng ở đâu trên bản đồ giáo dục thế giới?

Cụ thể hóa thêm một bước, năm 2012, văn bản Luật Giáo dục Đại học ra đời.

Đây là văn bản pháp luật đầu tiên điều chỉnh một lĩnh vực giáo dục ở trình độ cao, nâng tầm kiểm soát về mặt quản lý Nhà nước thêm một bước.

Văn bản này quy định mục tiêu chung của giáo dục Đại học bao gồm:

Đào tạo nhân lực, nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài; nghiên cứu khoa học, công nghệ tạo ra tri thức, sản phẩm mới, phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và hội nhập quốc tế; đào tạo người học có phẩm chất chính trị, đạo đức; có kiến thức, kỹ năng thực hành nghề nghiệp, năng lực nghiên cứu và phát triển ứng dụng khoa học và công nghệ tương xứng với trình độ đào tạo; có sức khỏe; có khả năng sáng tạo và trách nhiệm nghề nghiệp, thích nghi với môi trường làm việc; có ý thức phục vụ nhân dân.

Cùng với các mục tiêu chung đó, Luật còn quy định những mục tiêu cụ thể đối với từng loại hình đào tạo là Cao đẳng, Đại học, Thạc sĩ và Tiến sĩ ở điều 5.   

Cùng với nhịp đảm bảo yêu cầu quản lý và phát triển giáo dục toàn diện, năm 2014 Quốc hội tiếp tục ban hành Luật giáo dục nghề nghiệp.

Theo quy định của Luật này, mục tiêu chung của giáo dục nghề nghiệp được xác định là nhằm đào tạo nhân lực trực tiếp cho sản xuất, kinh doanh và dịch vụ, có năng lực hành nghề tương ứng với trình độ đào tạo; có đạo đức, sức khỏe; có trách nhiệm nghề nghiệp; có khả năng sáng tạo, thích ứng với môi trường làm việc trong bối cảnh hội nhập quốc tế; bảo đảm nâng cao năng suất, chất lượng lao động; tạo điều kiện cho người học sau khi hoàn thành khóa học có khả năng tìm việc làm, tự tạo việc làm hoặc học lên trình độ cao hơn.

Như thế, nhìn một cách tổng quan, giáo dục của Việt Nam đã được quan tâm một mức khá toàn diện, trong các văn bản pháp luật đã thể hiện những nội dung có tính triết lý cao, đảm bảo cho sự ổn định và phát triển chung.

Cùng với những Luật này là những văn khác của Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo nhằm cụ thể hóa và điều chỉnh những vấn đề cụ thể, góp phần thiện thêm về pháp luật trong lĩnh vực giáo dục.

Triết lý giáo dục thể hiện tại Nghị quyết 29 của Đảng

Năm 2011 đánh dấu một bước chuyển mới trong giáo dục, đó là Đại hội Đảng toàn quốc khóa XI khai mạc vào mùa xuân với chủ trương đổi mới căn bản và toàn diện về giáo dục.

Tiếp đó, tháng 11/2013, Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã tiến hành Hội nghị Trung ương 8. Theo đó, Hội nghị Trung ương 8 đã ban hành Nghị quyết số 29 với chủ điểm là đổi mới căn bản và toàn diện về giáo dục.

Cùng với việc ban hành Hiến pháp mới năm 2013 thì có thể nói nói đây là những chủ trương thể hiện tư tưởng đổi mới toàn diện đất nước của Đảng và Nhà nước ta.

Hiến pháp năm 2013 quy định:

"Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài" (Điều 61).

Đây là một quy định bao hàm tính triết lý ở tầm vĩ mô, trong góc nhìn phát triển toàn diện về giáo dục.

Với lộ trình đó, Nghị quyết số 29 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI tại Hội nghị 8 đề ra những quan điểm và mục tiêu đói với vấn đề đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục Việt Nam, mà theo như sự khẳng định của nguyên Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Phạm Vũ Luận thì đó là những triết lý của Giáo dục Việt Nam (Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam).

Đây có phải là triết lý cho Giáo dục Việt Nam? ảnh 4

Thứ trưởng Nguyễn Vinh Hiển nghĩ gì về xã hội hóa giáo dục?

Tuy nhiên, không chỉ đến bây giờ ta mới có triết lý giáo dục, mà triết lý giáo dục Việt Nam đã được đề cập rải rác ở những văn bản có tính pháp lý cao nhất như đã dẫn ở trên.

Trên thực tế, trước đây Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII về định hướng chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000 cũng đã có những ý tứ thể hiện triết lý giáo dục.

Ở đây, chúng ta cùng tìm hiểu những triết lý mà Nghị quyết số 29 đã đề cập. Cụ thể, Nghị quyết đã đề ra quan điểm chỉ đạo xuyên suốt quá trình đổi mới mang tầm triết lý trên bảy nội dung: 

  1) Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.

  2) Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới những vấn đề lớn, cốt lõi, cấp thiết, từ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội dung, phương pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện bảo đảm thực hiện; đổi mới từ sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đến hoạt động quản trị của các cơ sở giáo dục - đào tạo và việc tham gia của gia đình, cộng đồng, xã hội và bản thân người học; đổi mới ở tất cả các bậc học, ngành học.

Trong quá trình đổi mới, cần kế thừa, phát huy những thành tựu, phát triển những nhân tố mới, tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm của thế giới; kiên quyết chấn chỉnh những nhận thức, việc làm lệch lạc.

Đổi mới phải bảo đảm tính hệ thống, tầm nhìn dài hạn, phù hợp với từng loại đối tượng và cấp học; các giải pháp phải đồng bộ, khả thi, có trọng tâm, trọng điểm, lộ trình, bước đi phù hợp.

   3) Phát triển giáo dục và đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học.

Học đi đôi với hành; lý luận gắn với thực tiễn; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội.

   4) Phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc; với tiến bộ khoa học và công nghệ; phù hợp quy luật khách quan.

Chuyển phát triển giáo dục và đào tạo từ chủ yếu theo số lượng sang chú trọng chất lượng và hiệu quả, đồng thời đáp ứng yêu cầu số lượng.

   5) Đổi mới hệ thống giáo dục theo hướng mở, linh hoạt, liên thông giữa các bậc học, trình độ và giữa các phương thức giáo dục, đào tạo. Chuẩn hoá, hiện đại hoá giáo dục và đào tạo.

   6) Chủ động phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển giáo dục và đào tạo.

Phát triển hài hòa, hỗ trợ giữa giáo dục công lập và ngoài công lập, giữa các vùng, miền.

Ưu tiên đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo đối với các vùng đặc biệt khó khăn, vùng dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa và các đối tượng chính sách. Thực hiện dân chủ hóa, xã hội hóa giáo dục và đào tạo.

  7) Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế để phát triển giáo dục và đào tạo, đồng thời giáo dục và đào tạo phải đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế để phát triển đất nước.

Với những quan điểm này, Nghị quyết số 29 đã thể hiện những triết lý giáo dục khá sâu sắc, định hướng cho tính giáo dục đúng đắn và phát triển. Bên cạnh đó, Nghị quyết 29 cũng đã đề ra những mục tiêu chung cần thực hiện là sự cụ thể của triết lý giáo dục. Cụ thể:

Đây có phải là triết lý cho Giáo dục Việt Nam? ảnh 5

Từ quy luật Campbell nhìn về đổi mới giáo dục ở Việt Nam

"Tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân.

Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả. 

Xây dựng nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp, dạy tốt, học tốt, quản lý tốt; có cơ cấu và phương thức giáo dục hợp lý, gắn với xây dựng xã hội học tập; bảo đảm các điều kiện nâng cao chất lượng; chuẩn hóa, hiện đại hoá, dân chủ hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế hệ thống giáo dục và đào tạo; giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa và bản sắc dân tộc.

Phấn đấu đến năm 2030, nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực".

Ở đây, Nghị quyết 29 cũng đề ra những mục tiêu cụ thể cần đạt đối với các cấp học và bậc học khá chi tiết, thể hiện và truyền tải cái đích của triết lý toàn diện đối với giáo dục Việt Nam. Cụ thể:

Đối với giáo dục Mầm non, giúp trẻ phát triển thể chất, tình cảm, hiểu biết, thẩm mỹ, hình thành các yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị tốt cho trẻ bước vào lớp 1.

Hoàn thành phổ cập giáo dục Mầm non cho trẻ 5 tuổi vào năm 2015, nâng cao chất lượng phổ cập trong những năm tiếp theo và miễn học phí trước năm 2020.

Từng bước chuẩn hóa hệ thống các trường Mầm non. Phát triển giáo dục Mầm non dưới 5 tuổi có chất lượng phù hợp với điều kiện của từng địa phương và cơ sở giáo dục.

Đối với Giáo dục Phổ thông, tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất, năng lực công dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề nghiệp cho học sinh.

Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú trọng giáo dục lý tưởng, truyền thống, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực và kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn.

Phát triển khả năng sáng tạo, tự học, khuyến khích học tập suốt đời. Hoàn thành việc xây dựng chương trình giáo dục phổ thông giai đoạn sau năm 2015. Bảo đảm cho học sinh có trình độ trung học cơ sở (hết lớp 9) có tri thức phổ thông nền tảng, đáp ứng yêu cầu phân luồng mạnh sau Trung học Cơ sở; Trung học Phổ thông phải tiếp cận nghề nghiệp và chuẩn bị cho giai đoạn học sau phổ thông có chất lượng.

Nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục, thực hiện giáo dục bắt buộc 9 năm từ sau năm 2020. Phấn đấu đến năm 2020, có 80% thanh niên trong độ tuổi đạt trình độ giáo dục Trung học Phổ thông và tương đương.

Đối với giáo dục nghề nghiệp, tập trung đào tạo nhân lực có kiến thức, kỹ năng và trách nhiệm nghề nghiệp.

Hình thành hệ thống giáo dục nghề nghiệp với nhiều phương thức và trình độ đào tạo kỹ năng nghề nghiệp theo hướng ứng dụng, thực hành, bảo đảm đáp ứng nhu cầu nhân lực kỹ thuật công nghệ của thị trường lao động trong nước và quốc tế.

Đối với giáo dục Đại học, tập trung đào tạo nhân lực trình độ cao, bồi dưỡng nhân tài, phát triển phẩm chất và năng lực tự học, tự làm giàu tri thức, sáng tạo của người học.

Hoàn thiện mạng lưới các cơ sở giáo dục đại học, cơ cấu ngành nghề và trình độ đào tạo phù hợp với quy hoạch phát triển nhân lực quốc gia; trong đó, có một số trường và ngành đào tạo ngang tầm khu vực và quốc tế.

Đa dạng hóa các cơ sở đào tạo phù hợp với nhu cầu phát triển công nghệ và các lĩnh vực, ngành nghề; yêu cầu xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và hội nhập quốc tế.

Đối với giáo dục thường xuyên, bảo đảm cơ hội cho mọi người, nhất là ở vùng nông thôn, vùng khó khăn, các đối tượng chính sách được học tập nâng cao kiến thức, trình độ, kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ và chất lượng cuộc sống; tạo điều kiện thuận lợi để người lao động chuyển đổi nghề; bảo đảm xóa mù chữ bền vững.

Hoàn thiện mạng lưới cơ sở giáo dục thường xuyên và các hình thức học tập, thực hành phong phú, linh hoạt, coi trọng tự học và giáo dục từ xa.

Đối với việc dạy tiếng Việt và truyền bá văn hóa dân tộc cho người Việt Nam ở nước ngoài, có chương trình hỗ trợ tích cực việc giảng dạy tiếng Việt và truyền bá văn hóa dân tộc cho cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, góp phần phát huy sức mạnh của văn hóa Việt Nam, gắn bó với quê hương, đồng thời xây dựng tình đoàn kết, hữu nghị với nhân dân các nước.

Đây có phải là triết lý cho Giáo dục Việt Nam? ảnh 6

Chúng ta nên tự hào hay lo lắng về thực trạng nền giáo dục nước nhà?

Như thế, với những triết lý giáo dục đã được định hình, sẽ dấy lên một niềm hy vọng đối với một nền giáo dục toàn diện, có bài bản.

Vấn đề là với những quy định của Luật và Nghị quyết, Giáo dục cần phải được quan tâm đúng mức, để có được sự ổn định và phát triển một cách có hệ thống và có định hướng, chứ không phải chỉ là những triết lý mang tính khẩu hiệu chung chung.

Những triết lý này của Giáo dục Việt Nam sẽ mở ra một hướng đi mới, quan niệm đúng đắn hơn về giáo dục của nước nhà.

Chúng tôi hy vọng rằng, với sự đồng thuận của xã hội, chúng ta sẽ có một nền giáo dục tốt đẹp trong tương lai.         

Bài viết thể hiện nhận thức, quan điểm, góc nhìn và cách hành văn của riêng tác giả.

Trần Trí Dũng