Bất cập học Ngữ văn ở phổ thông

15/01/2013 14:32
Xuân Trung
(GDVN) - Tại Hội thảo khoa học quốc gia về dạy học Ngữ văn ở trường phổ thông do Bộ GD&ĐT tổ chức mới đây tại Huế, với sự tham gia của nhiều nhà khoa học, nhà giáo dục và cán bộ giáo viên môn Ngữ văn nhận thấy, chương trình Ngữ văn ở trường phổ thông hiện nay còn khá nhiều bất cập.
Nội dung môn Ngữ văn quá cao với học sinh nông thôn
Những bất cập và hạn chế này được chính Bộ GD&ĐT thừa nhận, cụ thể: Chương trình (CT) chưa nhất quán theo một trục qua các cấp học, nội dung còn nhiều trùng lặp, tính tích hợp giữa các hợp phần càng lên các lớp trên càng mờ nhạt. Việc tách biệt các hợp phần Tiếng Việt và Làm văn trong CT là không hợp lý. CT và SGK vẫn nặng tính hàn lâm, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển năng lực học sinh – nhất là phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo. 

Nhiều bài học trong SGK, nhất là ở các lớp trên, nặng về lý thuyết, ít có tác dụng rèn luyện kỹ năng cho học sinh. Một số nội dung còn cao đối với khả năng tiếp thu của học sinh, nhất là học sinh nông thôn, miền núi và những học sinh có ở những vùng kinh tế - xã hội khó khăn. Thời lượng dành cho một số nội dung học tập chưa hợp lý. Hầu hết tác phẩm dạy trong SGK THCS, THPT tuy có vị trí trong lịch sử văn học nhưng đã ra đời quá lâu, nhiều tác phẩm không phù hợp với tâm lý của học sinh hiện nay, do đó không khơi gợi được hứng thú học tập của các em.

Ảnh minh họa Internet
Ảnh minh họa Internet

Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Vinh Hiển cho biết,  việc đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá hiện ở những trường phổ thông vẫn chưa thực sự chuyển biến, nhiều khi còn dừng ở hình thức, chưa có chiều sâu. Phương pháp dạy đọc hiểu chưa có hiệu quả, giáo viên chưa chú ý đến việc hình thành cho học sinh phương pháp đọc văn bản. Việc kiểm tra đánh giá vẫn chủ yếu là kiểm tra kiến thức nhớ, tái hiện, làm theo, chép lại,... học tác phẩm nào thi đúng tác phẩm đó, chưa đánh giá đúng được sự vận dụng kiến thức, chưa chú trọng việc đánh giá thường xuyên trên lớp học và sử dụng kết quả đánh giá để điều chỉnh nội dung, phương pháp dạy và học. 

Đánh giá về sinh viên sư phạm chuyên ngành Ngữ văn, Thứ trưởng cũng cho biết chất lượng đầu ra của sinh viên chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn mặc dù điều kiện học tập ngày càng tốt hơn. Nhiều sinh viên sau khi ra trường còn lúng túng trong việc dạy học bởi khoảng cách giữa việc học tập - thực tập ở nhà trường và thực tế dạy học. Kiến thức Văn, kĩ năng nghề của sinh viên ngày càng sa sút, chưa coi trọng học tập và rèn luyện nghiệp vụ sư phạm. Công tác tuyển sinh còn nhiều vấn đề cần bàn, bên cạnh đó CT đào tạo chưa xác định rõ các tiêu chí cho các học phần cơ bản/lựa chọn/bắt buộc; các tổ bộ môn trong khoa Ngữ văn chưa có sự phối hợp tốt, việc cấp chứng chỉ sư phạm chưa được quản lí chặt chẽ, phương pháp đào tạo lạc hậu, chưa phát huy tính tích cực và năng lực tự học của sinh viên.

Một yếu tố chủ quan nữa là đội ngũ giảng viên còn thụ động trong việc đáp ứng những đòi hỏi của việc thay đổi của chương trình, SGK do ý thức tự học, tự nghiên cứu, nâng cao trình độ, chuyên môn nghiệp vụ còn hạn chế. Công tác bồi dưỡng giáo viên tuy được tổ chức thường xuyên, nhưng chưa thực sự xuất phát từ nhu cầu của giáo viên, hiệu quả thấp.
Tích  hợp và phân hóa môn Ngữ văn

Theo Bộ GD&ĐT, sau khi lấy ý kiến về giảng dạy môn Ngữ văn tại các trường phổ thông hiện nay, các ý kiến đóng góp thể hiện và nhận định môn Ngữ văn có ưu thế trong việc hình thành và phát triển năng lực giao tiếp (đó là năng lực chung/ năng lực cốt lõi). Các  ý kiến bàn luận cần xác định những năng lực chuyên biệt, cụ thể trong môn Ngữ văn đối với việc hình thành và phát triển ở học sinh. Năng lực chuyên biệt này cần thực hiện trong mục tiêu và chuẩn môn học qua từng cấp như thế nào? 

Thứ trưởng Nguyễn Vinh Hiển cho biết, trong thời gian tới sẽ tích hợp và phân hóa với môn Ngữ văn. Muốn vậy phải định hướng dạy học theo năng lực đòi hỏi các môn học tích hợp một số nội dung tri thức và kĩ năng nhằm giải quyết các tình huống trong học tập và trong cuộc sống. Tích hợp các mạch kiến thức lớn (văn học, tiếng Việt và Làm văn, văn hóa) trong nội bộ môn học qua trục kĩ năng.  Lấy trục kĩ năng làm chính, việc phân hóa vi mô được thể hiện qua Chuẩn CT các cấp, lớp học và được thực hiện thông qua quá trình dạy học. Cần chú ý tới hướng tổ chức nội dung môn Ngữ văn đáp ứng yêu cầu phân hóa vĩ mô thông qua các nội dung học tự chọn ở các lớp trên nhằm mục đích hướng nghiệp và đáp ứng nhu cầu của các học sinh khác nhau về làm văn và văn học. Ngoài ra, cần tích hợp nhiều hơn, tự nhiên hơn những lĩnh vực/ môn học khác. 

Để chuẩn bị cho một kế hoạch dài hạn này Bộ GD&ĐT phải thiết kế được một chương trình đào tạo giáo viên bảo đảm tính khoa học cao, tích hợp giữa khoa học sư phạm và khoa học cơ bản, đáp ứng Chuẩn nghề nghiệp giáo viên. Theo đó, hướng đổi mới quan trọng nhất là rèn luyện năng lực tự học và năng lực giải quyết vấn đề của sinh viên, đánh giá đúng tầm quan trọng và tăng cường các giải pháp, thời lượng cho việc học tập và rèn luyện nghiệp vụ sư phạm của sinh viên. Xác định trách nhiệm và cơ chế phối hợp giữa các cơ quan quản lí giáo dục, trường sư phạm và giáo viên, trường phổ thông trong quá trình bồi dưỡng thường xuyên giáo viên.

Nhìn nhận lại về CT, SGK hiện hành Thứ trưởng Nguyễn Vinh Hiển đánh giá, có một bước tiến so với CT, SGK trước đó, cơ bản mục tiêu môn học đáp ứng đúng qui định của Luật Giáo dục và của CT giáo dục phổ thông, khá toàn diện và đầy đủ trên 03 bình diện: kiến thức, kĩ năng và thái độ; CT đã xác định được chuẩn kiến thức, kỹ năng làm cơ sở để biên soạn SGK, sách giáo viên để dạy học, kiểm tra đánh giá kết quả học tập; cập nhật khoa học Ngôn ngữ và Văn học, đã thể hiện được nguyên tắc tích hợp trong dạy học. 
Xuân Trung