Nghiên cứu đáng chú ý của thầy Trần Trí Dũng về mô hình trường học mới - VNEN

18/09/2016 13:32
Trần Trí Dũng
(GDVN) - Dạy học theo VNEN giúp hình thành được cho học sinh những năng lực căn bản theo định hướng: học để biết, học để làm, học để tự khẳng định và học để cùng chung

LTS: VNEN vẫn tiếp tục là câu chuyện gây sóng gió trong giáo dục nước nhà với nhiều đơn xin không áp dụng nữa.

Bàn về cơ sở và những yêu cầu khi áp dụng Mô hình trường học mới (VNEN), thầy Trần Trí Dũng đã có bài viết phân tích.

Các vấn đề thầy đưa ra xuất phát từ việc xác định rõ VNEN là gì? Các thành tố cấu thành cũng như yêu cầu để áp dụng thành công?

Việc ấy, có thể thực hiện được ở Việt Nam không?

Để rộng đường dư luận, Tòa soạn trân trọng gửi đến độc giả bài viết này và hy vọng tiếp tục nhận được ý kiến, đóng góp của quý vị!

Mô hình trường học mới tại Việt Nam "Viet Nam Escuela Nueva" (gọi tắt là VNEN) xuất phát từ mô hình trường học mới (EN), được khởi nguồn từ Colombia những năm 1995 -2000 để dạy học sinh trong những lớp lắp ghép ở vùng miền núi khó khăn, theo nguyên tắc lấy học sinh làm trung tâm.

EN được tổ chức và chuyên gia giáo dục quốc tế từ các nước có nền giáo dục tiên tiến hỗ trợ và phát triển.

Mô hình này đạt được những thành công vang dội và mau chóng được nhân rộng khắp châu Mỹ La-tinh.

Các tổ chức UNESCO, Ngân hàng Thế giới coi mô hình EN có chất lượng tốt, là giải pháp giáo dục có hiệu quả mà các nước phát triển nên vận dụng.

Nhiều trường ở Quảng Bình thực hiện mô hình VNEN (Ảnh: giaoduc.net.vn).
Nhiều trường ở Quảng Bình thực hiện mô hình VNEN (Ảnh: giaoduc.net.vn).

Vì thế, Quỹ hỗ trợ toàn cầu về về giáo dục của Liên Hiệp Quốc đã tài trợ không hoàn lại 84,6 triệu USD để thực hiện dự án triển khai thí điểm tại Việt Nam, với tên gọi tắt VNEN (theo Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam).

Khi nghiên cứu mô hình này, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã thấy điều kiện làm giáo dục của Colombia có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam, nhất là những khó khăn về chất lượng giáo viên, cơ sở vật chất nhà trường; Colombia đã khắc phục những khó khăn đó một cách thành công thông qua mô hình trường học mới.

Mô hình giáo dục này gắn liền với đời sống, làm cho học sinh hiểu biết và yêu mến, muốn đóng góp xây dựng quê hương của chính các em.

Ở các địa phương Colombia, nhờ áp dụng mô hình này mà họ đã chặn được làn sóng ai cũng muốn về thành phố rồi không có việc làm.

Đặc biệt, mô hình của họ luôn hướng vào hình thành các năng lực và phẩm chất của người công dân đất nước họ và năng lực công dân toàn cầu.

Sau thời gian thí điểm vào năm học 2011-2012 tại 6 tỉnh cho 12 huyện, 24 trường và 48 lớp 2, Dự án Mô hình Trường học mới chính thức được triển khai ở Việt Nam vào năm học 2012-2013, cho tất cả 63 tỉnh, thành phố trong toàn quốc, với 1.447 trường.

Cho tới năm học 2015-2016 có tất cả 2.730 trường (ở 53 tỉnh, thành) tự nguyện áp dụng mô hình, nâng tổng số trường áp dụng mô hình lên 4.177 trường, chiếm gần 30% tổng số trường Tiểu học trong toàn quốc.

Nghiên cứu đáng chú ý của thầy Trần Trí Dũng về mô hình trường học mới - VNEN ảnh 2

Quảng Bình không khuyến khích nhân rộng mô hình VNEN

Sau khi thí điểm mô hình taị 24 trường Trung học Cơ sở thuộc 6 tỉnh vào năm học 2014-2015, đến năm 2015-2016 đã triển khai áp dụng mô hình trường học mới ở hơn 1700 trường Trung học Cơ sở thuộc 61 tỉnh, thành.

Theo văn bản của Bộ Giáo dục và Đào tạo đưa ra vào tháng 3/2016 thì dự án thí điểm Trường học mới tại Việt Nam sẽ kết thúc từ ngày 31/5/2016.

Như thế, tới nay dự án thí diểm VNEN đã kết thúc.

Theo Thứ trưởng Bộ Giáo dục và đào tạo Nguyễn Vinh Hiển thì Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ tiếp thu những kinh nghiệm từ mô hình VNEN để đưa vào dự thảo mới Điều lệ trường Tiểu học, trung học.

Vì thế, cần thiết nhìn nhận và đánh giá lại một cách toàn diện về lý thuyết và thực tiễn áp dụng thực hiện dự án mới mẻ này tại Việt Nam.     

Quan điểm giáo dục khi xây dựng mô hình VNEN 

Mô hình Trường học mới (VNEN) được triển khai ở Việt Nam theo quan điểm: lựa chọn nội dung phù hợp, những cách làm hay của các nước trên cơ sở đảm bảo những nguyên lý, quy luật nhận thức và những thành tựu khoa học giáo dục tiên tiến trên thế giới.

Đồng thời, kế thừa những thành tựu, kinh nghiệm tốt của giáo dục Việt Nam, vận dụng mô hình phù hợp với điều kiện thực tiễn của đất nước.

Theo ông Phạm Ngọc Định, Vụ trưởng Vụ Giáo dục Tiểu học (Bộ Giáo dục và Đào tạo), mô hình trường học mới được Ngân hàng thế giới và UNESSCO hỗ trợ để các chuyên gia giáo dục hàng đầu thế giới thiết kế cho các nước đang phát triển và được triển khai thành công đầu tiên ở Colombia.

Hiện nay đã được nhiều nước đang phát triển khác áp dụng.

Mô hình này đã giành được một số giải thưởng quốc tế và được Ngân hàng thế giới cũng như UNESCO đánh giá là một trong ít mô hình phù hợp nhất với điều kiện giáo dục của các nước đang phát triển.

Nghiên cứu đáng chú ý của thầy Trần Trí Dũng về mô hình trường học mới - VNEN ảnh 3

"Nếu phụ huynh không đồng ý cho con học VNEN, chúng tôi sẽ dừng"

Ngoài nghiên cứu mô hình của Colombia, mô hình trường học mới tại Việt Nam cũng dựa vào những thành tựu khoa học giáo dục tiên tiến của thế giới, dựa trên quy luật nhận thức và những thành tựu tiên tiến của khoa học giáo dục, được thiết kế thành các bước chung cho các nội dung học tập và hoạt động giáo dục. 

Cũng theo ông Phạm Ngọc Định, mô hình trường học mới Việt Nam dựa vào cơ sở khoa học các môn học, đặc biệt là thành tựu khoa học giáo dục, đó là:

1. Thuyết kiến tạo: mỗi cá nhân học sinh phải tự hoạt động làm ra sản phẩm học tập cho chính mình bằng cách vận dụng kiến thức đã có để giải quyết tình huống mới nảy sinh và sắp xếp kiến thức mới nhận được vào cấu trúc các kiến thức hiện có của mình, lúc đó kiến thức mới của học sinh được gia tăng, đồng thời có giá trị ứng dụng thực tiễn.

2. Thuyết tâm lý học phát triển của Piaget và lý luận về “vùng phát triển gần nhất” của Vưgotsky, theo đó, trong “bản đồ” phát triển nhận thức của trẻ luôn có hai mức độ, đó là trình độ hiện tại và vùng phát triển gần nhất.

Trong đó, trình độ hiện tại là các chức năng tâm lý đã đạt tới độ chín muồi, còn ở vùng phát triển gần nhất, chức năng tâm lý đang phát triển nhưng chưa chín muồi.

Quá trình dạy học phải giúp cho học sinh đạt tới sự chín muồi của vùng phát triển gần nhất và luôn đứng trước vùng phát triển gần nhất mới hình thành. 

Khi đó, mô hình trường học mới tổ chức cho học sinh học cá nhân, học nhóm, đổi mới đánh giá để có hỗ trợ của bạn, của thầy cô, cha mẹ... để học sinh hoàn thành tốt nhiệm vụ học tập.

3. Thuyết hoạt động của các nhà tâm lý học Nga, khởi đầu là Vưgotsky, ở Việt Nam Giáo sư Hồ Ngọc Đại cũng đã áp dụng lý thuyết này ở trường thực nghiệm.

Vận dụng Thuyết hoạt động, trường học mới áp dụng phương pháp dạy học không phải là thầy giảng giải mà là thầy tổ chức cho học sinh hoạt động. 

Theo đó, thầy đưa khái niệm trong đầu thầy ra ngoài trên các hình thái vật chất (tài liệu hướng dẫn học, thiết bị), tổ chức cho học sinh hoạt động trên các hình thái vật chất của khái niệm, bằng những hoạt động của bản thân, học sinh lĩnh hội khái niệm trên hình thái vật chất và chuyển vào trong đầu. 

4. Thuyết đa trí tuệ của Howard Gardner (năm 1985), theo đó, người ta ai cũng thông minh nhưng mỗi người có một hay vài thiên hướng thông minh nổi trội.

Ông chỉ ra 8 loại thông minh thường gặp là: thông minh về không gian/ hình ảnh, thông minh về lời nói/ ngôn ngữ, thông minh về toán/ lôgic, thông minh về âm nhạc/ nhịp điệu, thông minh về vận động/ thể chất, thông minh về tự nhiên, thông minh về năng lực tương tác, thông minh về nội tâm.

Trường học mới sẽ tổ chức, tạo cơ hội để phát huy tối đa khả năng thiên hướng trí tuệ của từng học sinh. 

Mô hình trường học mới ở bậc Tiểu học hay Trung học Cơ sở đều có điểm chung là phát huy tính chủ động, tự học, tự quản của học sinh theo nhóm trong một lớp hoặc theo cặp trong nhóm.

Vai trò của giáo viên chuyển đổi từ giảng giải, truyền thụ kiến thức sang tổ chức, hướng dẫn học sinh học cá nhân, học theo nhóm...

Việc đánh giá học sinh sẽ trên tinh thần theo sát quá trình học tập, khích lệ sự tiến bộ và phát huy thế mạnh của cá nhân học sinh, đa dạng hóa các kênh đánh giá: giáo viên đánh giá học sinh, học sinh đánh giá học sinh và cha mẹ học sinh đánh giá học sinh...

Theo giáo dục học hiện đại, phương pháp dạy học luôn là sự phản ánh phương pháp nhận thức khoa học nhưng có sự gia công của nhà giáo dục.

Vai trò của nhà giáo dục là đảm bảo hoạt động nhận thức của học sinh phải theo đúng quy luật chung (để hiệu quả về kết quả lĩnh hội tri thức và để hình thành năng lực tự học). 

Mô hình trường học đã thiết kế các bài học (trong sách hướng dẫn học) theo đúng các bước trong quy trình nhận thức khoa học với sự gia công sư phạm để dễ học, dễ vận dụng kiến thức.

Lúc đầu khi thiết kế dự án, các nhà tài trợ chỉ cho phép các trường tham gia dự án đối với vùng sâu vùng xa, với lý do nếu các trường khó khăn mà làm được thì các trường thuận lợi sẽ triển khai áp dụng mô hình dễ dàng. 

Với điều kiện thực tiễn hiện tại, dự án tập trung vào đổi mới cách dạy, đổi mới cách học, đổi mới cách đánh giá, đổi mới cách thức tổ chức lớp học (dưới sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh hoạt động, sinh hoạt theo nguyên tắc tự quản), đổi mới sự tham gia của cộng đồng, cha mẹ vào giáo dục. 

Một tiết dạy áp dụng mô hình VNEN (Ảnh: giaoduc.net.vn)
Một tiết dạy áp dụng mô hình VNEN (Ảnh: giaoduc.net.vn)

Nghĩa là dự án chỉ thiết kế và tổ chức các hoạt động giáo dục nhằm đạt mục tiêu chương trình một cách tốt nhất, hiệu quả nhất; chưa phải là đưa ra một chương trình mới.

Theo mô hình này, giáo viên chuyển đổi từ lối dạy giảng giải, truyền thụ kiến thức cho cả lớp sang tổ chức, hướng dẫn học sinh hoạt động học tập thông qua các hình thức học cá nhân, học theo nhóm; chú ý quan tâm đến từng học sinh.

Học sinh chủ động thực hiện các hoạt động học dựa theo tài liệu hướng dẫn học (Sách giáo khoa).

Học sinh được tự học thông qua tương tác với Sách giáo khoa (học cá nhân, đọc và suy ngẫm), thảo luận cặp đôi và thảo luận trong nhóm, trong lớp và thảo luận với giáo viên để tự lĩnh hội kiến thức mới, rèn luyện kĩ năng, phát triển phẩm chất và năng lực.

Lớp học có hội đồng tự quản học sinh do tập thể lớp bầu ra (của học sinh), tự quản và dân chủ hoạt động (do học sinh), qua đó học sinh phát huy tính tự tin, tự giác hòa nhập với tập thể và phát huy tốt nhất năng lực cá nhân và giá trị đích thực của mỗi em (vì học sinh).

Không gian lớp học có chỗ dành cho học sinh trưng bày các sản phẩm học tập, tủ sách lớp học, đồ dùng học tập.

Một điểm mới nổi bật ở đây là đổi mới về cách thức huy động sự tham gia của cha mẹ, cộng đồng trong quá trình giáo dục.

Nghiên cứu đáng chú ý của thầy Trần Trí Dũng về mô hình trường học mới - VNEN ảnh 5

Giáo sư Nguyễn Lân Dũng: Tôi viết thư này gửi Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ

Mỗi bài học đều có phần yêu cầu học sinh vận dụng hoặc tìm hiểu kiến thức từ thực tế địa phương, gia đình. Để từ đó các em mạnh dạn tìm hiểu, học hỏi từ người khác thì mới đạt kết quả tốt.

Đặc biệt có hình thức sinh hoạt chuyên môn tại trường học thông qua nghiên cứu bài học, chú trọng hoạt động dự giờ minh họa để trao đổi, chia sẻ, học hỏi chuyên môn trong tổ, trường, cụm trường, được xem điểm đổi mới mấu chốt trong mô hình trường học mới.

Hình thức sinh hoạt này nhằm khắc phục những hạn chế của tình trạng sinh hoạt chuyên môn nặng về hành chính, phê phán trước đây, nâng cao năng lực quản lí, năng lực chuyên môn và kỹ năng sư phạm cho cán bộ, giáo viên. 

Mục đích của các quan điểm theo mô hình này là thông qua đổi mới sư phạm, đổi mới phương pháp dạy học nhằm tích cực hóa hoạt động học tập, nhận thức của học sinh, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện trong nhà trường; góp phần nâng cao hiệu quả tích cực trong việc nâng cao chất lượng giảng dạy; nâng cao năng lực hợp tác, tự học, sáng tạo cho học sinh.

Từ đó, giúp đội ngũ giáo viên thực hiện mô hình trường học mới hay dạy học theo nhóm nắm được nội dung, chương trình, phương pháp tổ chức dạy học theo mô hình dạy học mới, hiểu cách tổ chức lớp học và đánh giá kết quả học tập của học sinh theo mô hình trường học mới.

Yêu cầu đặt ra khi dạy theo VNEN

Áp dụng VNEN, giáo viên phải “dạy học thông qua cách tổ chức các hoạt động học tập của học sinh”.

Các em được học tập thông qua các hoạt động tự học hay học theo nhóm, phương pháp học của học sinh được coi trọng hơn trong quá trình dạy học; tạo khả năng dạy học phân hoá; tăng cường kết quả học tập của học sinh.

Phát huy tính tích cực, tự lực và tính trách nhiệm của học sinh; phát triển năng lực hợp tác làm việc; phát triển năng lực giao tiếp; tăng cường sự tự tin cho học sinh; tạo điều kiện cho tất cả học sinh tham gia vào bài học một cách chủ động và tạo được môi trường thuận lợi để các em hình thành tính cách đồng thời phát triển kỹ năng sống của mình.

mô hình trường học mới, thông qua quá trình truyền thụ kiến thức các môn học, chú trọng nhiều hơn tới việc hình thành cho học sinh năng lực nhận thức, năng lực tự học, các kỹ năng giải quyết vấn đề cho học sinh; học sinh được học, được làm quen cách hòa nhập, cách thích ứng với môi trường và cộng đồng trong một thế giới đang được từng ngày đổi thay.

Từ đó, chúng ta sẽ hình thành được cho học sinh những năng lực căn bản theo định hướng: học để biết, học để làm, học để tự khẳng định và học để cùng chung sống.

Trong các tiết học, học sinh hoạt động theo nhóm dưới sự hướng dẫn của giáo viên để xây dựng bài học; giáo viên là người tổ chức các hoạt động giáo dục chứ không chỉ là người dạy theo kiểu thuyết trình một chiều; nên ở các lớp này, bàn ghế được sắp xếp, ghép lại theo nhóm học sinh, học sinh ngồi cùng hướng mặt vào nhau.

Với cách sắp xếp này, các em dễ thảo luận và giáo viên dễ dàng tiếp cận với từng nhóm hoặc từng học sinh trong quá trình giảng dạy.

Giáo viên đánh giá học sinh trong quá trình học sinh học tập; đánh giá năng lực, phẩm chất của học sinh và đánh giá trên cơ sở tham khảo việc học sinh tự đánh giá mình, học sinh đánh giá bạn và bạn đánh giá học sinh.

Mỗi phương pháp dạy học đều có những lợi thế nhất định, dạy học theo mô hình VNEN thành công là giúp học sinh khắc phục được những yếu điểm mà nhiều học sinh chúng ta thường mắc phải.

Không khí học tập trong lớp tự nhiên, nhẹ nhàng và thân thiện; kết quả học tập, chất lượng giáo dục bước đầu được cải thiện; rèn luyện được cho các em những kỹ năng cơ bản: sử dụng ngôn ngữ, giao tiếp, thảo luận, bảo vệ ý kiến, giải quyết các mâu thuẫn, hoạt động nhóm, làm việc hợp tác.

Khi đó, bản thân người giáo viên phải đầu tư nhiều hơn để nâng cao tay nghề, nên nghiệp vụ Sư phạm được nâng cao hơn (kỹ năng tổ chức, quản lý, điều hành các hoạt động dạy học).

Tùy theo môn học, từ sách của giáo viên phải thiết kế phù hợp; nội dung dạy học được giáo viên thiết kế phải bảo đảm: giáo viên là người hướng dẫn, dẫn dắt học sinh đi tìm kiến thức, học sinh tự tìm hiểu, cùng bạn tìm hiểu, giáo viên chốt kiến thức.

Giáo viên phải đảm bảo tiết dạy của mình: tất cả học sinh đều được chủ động tham gia khám phá kiến thức; học sinh hiểu bài, ứng dụng được kiến thức đã học vào làm bài tập và vào thực tế cuộc sống.

Nghiên cứu đáng chú ý của thầy Trần Trí Dũng về mô hình trường học mới - VNEN ảnh 6

Phụ huynh Hà Tĩnh đồng lòng ký đơn xin không học theo VNEN cho con

Khi thiết kế bài giảng giáo viên phải chú ý: lựa chọn những nội dung thực sự phù hợp với hoạt động nhóm, giúp các em khám phá kiến thức mới một cách nhẹ nhàng, nhưng hiệu quả nhất; lựa chọn nội dung, hình thức thảo luận phù hợp; cách chia nhóm và sắp xếp chỗ ngồi cũng hết sức linh hoạt.

Các phương pháp dạy được kết hợp một cách linh hoạt sáng tạo theo từng bài cụ thể; trong mỗi bài thì theo từng nội dung cụ thể; ghi bảng cần ngắn gọn, khoa học.  

Sự thành công của tiết dạy phụ thuộc vào việc bản thân người giáo viên nắm vững phương pháp tổ chức dạy học theo nhóm; việc chuẩn bị bài của giáo viên; việc giáo viên hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài; việc giáo viên tổ chức quản lý, điều hành học sinh làm việc trên lớp; và quan trọng hơn tất cả đó là sự đam mê, tâm huyết của các thầy cô với công việc, học sinh của mình.

Trần Trí Dũng