Sự học nơi điểm trường lẻ vùng cao

20/02/2012 06:00
Theo GDTĐ
Đó là câu chuyện của những giáo viên đã và đang công tác tại những điểm trường, khu lẻ hay phân hiệu của những trường học ở vùng cao heo hút.

Do học sinh ở xa nên nhà trường phải bố trí dựng những phân hiệu để tạo điều kiện cho các em được đi học chữ. 

Vắng vẻ cuộc sống nơi các điểm trường
Cảnh vắng lặng là "đặc trưng" ở các điểm trường bởi thường được đặt ở các bản nằm sâu, xa

Có lẽ đây là lý do cơ bản nhất để các trường học vùng cao dựng lên các phân hiệu để cho các em có điều kiện đến lớp. Vì học trò ở xa…

Các điểm trường dựng lên hầu như chỉ mang tính chất “tạm” về cơ sở vật chất. Lớp học, bàn ghế, rồi cảnh quan xung quanh không được bằng khu chính. Do vậy, học sinh và giáo viên ở những điểm này thường thiếu thốn đủ bề. Những năm gần đây, được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và các địa phương, một số trường đã chủ động xây dựng được lớp học và phòng ở cho giáo viên ngay tại các khu phân hiệu.

Học sinh trường Tiểu học Xuân Thượng (Lào Cai) vượt suối tới điểm trường
Học sinh trường Tiểu học Xuân Thượng (Lào Cai) vượt suối tới điểm trường

Chúng tôi được thực tế tại phân hiệu trường tiểu học Nghĩa Đô (Bảo Yên- Lào Cai) tại bản Đáp, phân hiệu dành cho học sinh từ lớp 1 cho đến lớp 2, cả thầy và trò chưa đến chục người. Vậy mà hàng ngày, thầy Hoàng Văn Anh đã gần đến tuổi nghỉ hưu vẫn miệt mài “chèo lái” kiến thức cho các em học sinh. Vì học trò ở xa nên việc bố trí biên chế lớp học cũng khá phức tạp. Không thể có phân cấp, phân lớp như ở khu trường trung tâm mà các học sinh ở khu phân hiệu được ghép chung với nhau trong một lớp học. Có khi từ lớp 1 đến lớp 3 được học chung một lớp với sỹ số đếm trên đầu ngón tay. Và giáo viên cùng một lúc có thể dạy 3 đến 4 chương trình sách giáo khoa của lớp học. Điều kiện bắt buộc phải như vậy chứ chẳng giáo viên nào muốn dạy thế.

Nói là phân hiệu ngay tại bản để cho học sinh có điều kiện đến trường nhưng trên thực tế không hẳn vậy, mà chỉ là giảm bớt phần khó khăn đi thôi, bởi hầu hết các em ở trên các đỉnh núi cao nên việc đến lớp học cũng là một quãng đường khá xa và khó khăn so với bàn chân “ nhỏ xíu” trên những đoạn đường đá lởm chởm hay lầy thụt. Đó là hoàn cảnh ở hầu hết các điểm trường ở các huyện, các tỉnh vùng cao.

Chính vì vậy, khi thầy cô giáo đến lớp có khi phải chờ hàng giờ đồng hồ mới thấy các em đến. Thầy Lý Gìn Phù, giáo viên phụ trách điểm trường Tiểu học Vĩnh Yên (Bảo Yên- Lào Cai) tại bản Mông Tổng Kim cho biết: Sáng nào thầy cũng đến sớm để chờ học sinh, nhìn thấy các em đi bộ thấp thoáng trên các dẻo núi nhưng phải mãi gần một giờ đồng hồ sau mới thấy các em đến lớp, đứa nào đứa ấy mồ hôi đầm đìa, gấu quần sắn tận đầu gối. Thầy cho biết thêm, chuyện thầy cô giáo đi tìm học sinh, đón học sinh qua suối thì như... cơm bữa. 

Chuyện chuyên môn…

Dạy học ở các phân hiệu, các điểm trường thường chỉ có một thầy hoặc một cô “ cắm chốt” . Nhiều thì gần như cả đời dạy học, ít thì 3 đến 5 năm hết  “nghĩa vụ” lại hạ sơn. Điều đó đồng nghĩa với việc thầy cô giáo ở các điểm trường đó phải “ độc thoại” trong trau dồi và rèn giũa chuyên môn hàng ngày. Vất vả hơn, họ phải đứng lớp tới 2 đến 3 chương trình sách giáo khoa thì việc học tập để nâng cao năng lực chuyên môn là cả một việc khó khăn và đáng bàn. Nỗi lo về lán lớp, sĩ số học sinh theo từng ngày rồi đưa đón học sinh vào những ngày thiên tai bão lụt đã là cả một gánh nặng trên vai.

Tuy vậy, việc sinh hoạt chuyên môn của giáo viên ở các điểm trường vẫn được duy trì đều đặn hàng tuần. Có điều, muốn sinh hoạt, dự giờ thăm lớp và trao đổi chuyên môn với đồng nghiệp thì bắt buộc giáo viên tại các điểm trường phải “hạ sơn” để đến trường chính theo đúng lịch. 

Tại các điểm trường, sĩ số học sinh thường ít
Việc dạy học tại các điểm trường thường vất vả, khó khăn hơn

Thầy Phạm Đức Sơn Hiệu trưởng nhà trường cho biết: Tuy ở các phân hiệu nhưng các thầy cô giáo vẫn khắc phục mọi khó khăn để về trường trung tâm sinh hoạt chuyên môn vào thứ bảy hàng tuần, không bỏ một buổi nào. Ngược lại, Ban giám hiệu nhà trường cũng bố trí hàng tháng vào các điểm trường dự giờ thăm lớp và kiểm tra chất lượng chuyên môn của giáo viên.Năm 2011, chúng tôi đến một trường tại Hố Quáng Phìn (Đồng Văn- Hà Giang), ngôi trường THCS này chỉ có 1 trường trung tâm còn lại là 8 điểm trường nằm rải rác trong các bản Dao, bản Mông xa xôi.

Cô giáo Nguyễn Thị Vân, phụ trách giảng dạy tại một điểm trường thổ lộ với chúng tôi: Phân hiệu cách trường tới hơn chục cây số, lại không thể đi xe nên đành phải đi bộ đến trường chính để sinh hoạt chuyên môn, và tiếp lương thực trong 1 khoảng thời gian. Những lúc khó khăn về bài giảng hay kiến thức lại thấy khổ tâm vì chẳng có ai để hỏi, trao đổi, xung quanh chỉ có núi, có rừng, có dân thôi.

Qua câu chuyện này, chúng tôi mới biết được hiện nay, đa số các trường mới chỉ dừng lại ở việc sinh hoạt chuyên môn như vậy. Còn chất lượng chuyên môn ở các điểm trường phụ thuộc lớn vào sự tự giác, lòng yêu nghề và cái tâm của các thầy cô giáo cắm bản. 

…Và những bàn chân không mỏi

Tất cả vì học sinh. Có lẽ đó là khẩu hiệu của bất kì thầy cô giáo nào trước khi “khăn gói” vào bản công tác. Mặc dù Nhà nước có ưu đãi cho giáo viên vào các phân hiệu song cũng không thấm nổi những khó khăn, thiếu thốn và thiệt thòi của những giáo viên sẵn sàng nhận nhiệm vụ.

Không chỉ khó khăn trong việc đưa đón học sinh, rèn luyện nâng cao chuyên môn mà chuyện ăn ở, đi lại của các thầy cô giáo ở các điểm trường là cả một câu chuyện dài khó nói hết được. Khi mà cuộc sống ở các khu dân bản còn heo hút, thiếu thốn, khi mà đường đi lại còn hiểm trở thì bàn chân của những người đi “cắm bản” vẫn còn nhiều gập ghềnh. 

Để thu hút những đứa trẻ Mông nơi vùng cao heo hút này thì chỉ có đặt điểm trường, cùng sự nhiệt huyết của thầy, cô giáo mới có thể
Để thu hút những đứa trẻ Mông nơi vùng cao heo hút này thì chỉ có đặt điểm trường, cùng sự nhiệt huyết của thầy, cô giáo mới có thể "kéo" các em tới trường học chữ

Tại phân hiệu, bản làm cho cô một phòng bằng tranh tre tạm, đêm nằm vẫn thấy sao trời rõ mồn một rồi chỉ nghe thấy tiếng côn trùng rỉ rả, tiếng suối chảy ào ào đến não lòng. Từ ngày đầu, cô đã bị “vô hiệu hóa” trước  lũ trẻ ở đây là con em đồng bào Mông, hoàn toàn chưa biết nói tiếng Kinh, vậy là cô phải dạy chúng từ những vần ê, a ban đầu. Sinh hoạt hàng ngày chỉ có cá khô, lạc, mì tôm mua từ đầu tuần. Thế rồi dần dần, đất ấm chân người, cô Thúy cũng đã thêm quen, thêm yêu bản. 

Tại phân hiệu trường mầm non xã Tân Tiến (Bảo Yên- Lào Cai) đóng ở bản Mông Cán Chải trên một đỉnh núi cao, cách trung tâm xã gần 10km, cô Lê Thị Thúy đã về bản cách đây 2 năm. Khi ấy, cô là một sinh viên mới tốt nghiệp trường CĐSP, được phân công lên Cán Chải. Khi đó cô giáo trẻ không khỏi băn khoăn, có phần dao động. Không phải không yêu nghề mến trẻ mà nghĩ đến chặng đường lên núi và lại xuống núi hàng tuần cô thấy “rợn” cả người.

Tại phân hiệu của Trường Tiểu học Thu Ngạc huyện Tân Sơn (Phú Thọ), câu chuyện tình nguyện gieo chữ của cô giáo Nguyễn Thị Thoa đã làm ấm thêm miền đất mù sương này. Cô giáo Nguyễn Thị Thoa đã tình nguyện xung phong lên dạy chữ ở Cọ Sơn ngay từ những ngày đầu, thấm thoắt đã 24 năm gắn bó với Cọ Sơn cũng là từng ấy năm nhọc nhằn “chống gậy” leo núi để dạy chữ.

Ngày nào cũng vậy, cô đều dậy từ rất sớm, chuẩn bị giáo án, vượt hơn 8 km đường suối, đường rừng để đem đến cho các em cái chữ không kể nắng mưa. Có những ngày trời mưa to, lũ lớn, cô Thoa phải chống gậy đi tắt lên đường rừng rồi lại vòng xuống rất nhọc nhằn. Cô cho biết, những ngày đến đây dạy chữ, cô vượt lên trên tất cả những khó khăn về phía gia đình. Chồng cô ốm yếu, các con học xa rồi đồng lương hợp đồng ít ỏi có lẽ chẳng đủ cho trang trải cuộc sống. Những giờ tan lớp, cô cùng các con phải trồng lúa, trồng khoai để cải thiện cuộc sống. 

Cô Thoa tâm sự: “Chỉ mong các em có được chữ để sau này cuộc sống sẽ tốt hơn, sáng sủa hơn”.

Không thể làm gì khác được khi nhu cầu học tập ở những bản làng xa xôi, heo hút của con trẻ ngày một lớn, không thể đếm được những bước chân băng rừng lội suối của những người thầy người cô cùng những gian nan gánh chữ ở những nơi điểm trường xa xôi. Chỉ biết rằng, tất cả vì học sinh thân yêu, vì khát vọng mang đến ánh sáng cho những bản làng xa xôi.

Có thể bạn quan tâm

Hoa khôi các trường ĐH

Olympic tiếng Anh Hà Nội

Hiệu trưởng nghỉ hưu vẫn phải làm việc

Kinh nghiệm dạy con của các GS nổi tiếng

Thành công từ... trường đời

Bạo lực học đường

Sửa đoạn kết Tấm Cám

Bài văn xúc động về đồng tiền của trò Ams

Rơi nước mắt cuộc sống học sinh vùng cao

SV Ngoại thương: Lương 1.000 USD, không làm?

Các trường ĐH, CĐ Ngoài công lập ở miền Bắc

KTX tốt nhất Hà Nội

Tuyển sinh 2012:

Đổi mới Giáo dục

Theo GDTĐ