Những "hạt sạn" cần bỏ trong triển khai Chiến lược biển Việt Nam

10/10/2018 06:42
Tiến sỹ Trần Công Trục
(GDVN) - Chiến lược biển Việt Nam đúng hướng và xứng tầm, nhưng trong thực tiễn triển khai vẫn còn nhiều hạt sạn do nhận thức chưa đầy đủ, mơ hồ về luật pháp quốc tế.

Tiếp theo phần 1, Chiến lược biển Việt Nam, tâm nguyện của cựu Trưởng ban biên giới Chính phủ.

Đánh giá một cách khách quan, chúng tôi nhận thấy rằng các văn kiện chính trị và hệ thống văn bản quy phạm pháp luật được ban hành trong thời gian qua là khá nhiều vế số lượng; trong số đó, hầu hết đều đã đóng vai trò quan trọng, có tác dụng điều chỉnh tổng thể các lĩnh vực liên quan đến biển, đảo.

Hình minh họa, nguồn: Cảng Vĩnh Tân.
Hình minh họa, nguồn: Cảng Vĩnh Tân.

Có thể nói, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về biển, đảo của Việt Nam bước đầu đã tạo ra hành lang pháp lý cho việc quản lý nhà nước về biển, đảo; làm cơ sở điều chỉnh các hoạt động trong các vùng biển, đảo.

Trong đó, phải kể đến các văn bản quy phạm pháp luật bước đầu đã xác định phạm vi và chế độ pháp lý của từng vùng biển cụ thể; khẳng định chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia đối với từng vùng biển, thềm lục địa của Việt Nam; tăng cường quản lý nhà nước về biển, đảo.

Giải quyết vấn đề hoạch định ranh giới giữa các vùng biển và thềm lục địa chồng lấn với một số nước láng giềng; tạo cơ sở và điều kiện cho việc phát triển các ngành kinh tế biển;

Tăng cường hợp tác quốc tế trên biển, bảo vệ môi trường và sinh thái biển, thúc đẩy phát triển khoa học kỹ thuật và công nghệ biển.

Những "hạt sạn" cần bỏ trong triển khai Chiến lược biển Việt Nam ảnh 2Cơ hội và thách thức trên Biển Đông năm 2018, ứng xử của Việt Nam

Các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành về cơ bản phù hợp với các quy định của các Điều ước quốc tế về biển mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia…

Tuy nhiên, cho đến nay, trong thực tế đã có không ít những hồ sơ, tài liệu, thậm chí đến cả những văn bản quy phạm pháp luật được chính thức ban hành bởi các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp; được đăng tải trên các phương tiện thông tin tuyên truyền, giáo dục… vẫn còn những nội dung, quy định không phù hợp với Luật Biển Quốc tế và Luật Biển Việt Nam.

Nguyên nhân của tình trạng này chính là xuất phát từ nhận thức mơ hồ, nhầm lẫn, sai lệch của không ít người, trong đó có cả những cán bộ đang làm nhiệm vụ quản lý nhà nước các cấp từ Trung ương đến địa phương…

Chính vì vậy, hệ thống chính sách và văn bản quy phạm pháp luật về biển của ta vẫn còn tồn tại những hạn chế, bất cập như sau:

Một số chủ trương, chính sách phát triển và quản lý biển được ban hành còn chưa sát với tình hình thực tế, thiếu đồng bộ, thống nhất từ Trung ương đến địa phương, do quá trình xây dựng và ban hành, các cơ quan chức năng chưa nghiên cứu, đánh giá tác động kinh tế - xã hội, hoặc nếu có nghiên cứu, đánh giá thì cũng chưa toàn diện, dẫn tới tình trạng lúng túng hoặc giải thích sai trong áp dụng.

Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về biển, đảo tuy nhiều về số lượng, nhưng chất lượng thì vẫn chưa đầy đủ và còn manh mún, chủ yếu phục vụ cho công tác quản lý nhà nước của từng ngành, từng lĩnh vực, thiếu các văn bản hướng dẫn cụ thể chi tiết.

Một số văn bản quy phạm pháp luật còn mang tính định hướng, nguyên tắc chung chung… nên các cơ quan quản lý nhà nước tổng hợp về biển và hải đảo các cấp khó có thể thực hiện được các nhiệm vụ, quyền hạn của mình.

Việc phối hợp giữa Trung ương và địa phương và giữa các ngành với nhau chưa thực sự nhuần nhuyễn do chưa có một tổ chức quản lý nhà nước tập trung thống nhất, có đủ năng lực và quyền hạn để quản lý và điều phối chung.

Việc quy định phạm vi giới hạn quản lý, bảo vệ và hoạt động giữa các lực lượng chức năng (hải quân, biên phòng, cảnh sát biển...) còn chồng chéo, chưa được rõ ràng và cụ thể.

Những "hạt sạn" cần bỏ trong triển khai Chiến lược biển Việt Nam ảnh 3Mục tiêu và ý nghĩa thực sự của COC với Biển Đông

Việc hệ thống hóa, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến biển, đảo, việc phổ biến, tuyên truyền pháp luật về biển đảo đã được tiến hành nhưng chưa thường xuyên, rộng khắp, còn bị động, chạy theo sự kiện.

Cho đến nay vẫn còn nhiều sai sót gây bất lợi cho công cuộc đấu tranh bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của Việt Nam trong Biển Đông đang tồn tại những tranh chấp phức tạp, nhạy cảm.

Điều đáng lưu ý là, mặc dù đã có chiến lược biển khá đúng hướng, xứng tầm và hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về biển được ban hành khá nhiều và khá đầy đủ, nhưng triển khai và áp dụng trong thực tế chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ và hiệu quả chưa cao.

Nguyên nhân của thực trạng này có lẽ xuất phát từ năng lực quản lý, tổ chức thực hiện của cán bộ quản lý các cấp còn hạn chế và cơ chế tổ chức quản lý nhà nước về biển, đảo còn thiếu tập trung, thiếu đồng bộ, chạy theo lợi ích cục bộ ngành, địa phương… 

Thế kỷ XXI được coi là kỷ nguyên của đại dương, việc "vươn ra biển" đã trở thành xu thế lớn, định hướng quan trọng của các quốc gia có biển và cả quốc gia không có biển, nhất là trong tình hình khu vực và quốc tế đang có nhiều biến động phức tạp.

Đây là vấn đề hết sức hệ trọng, liên quan đến phát triển kinh tế biển gắn với ổn định xã hội, bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của quốc gia trong Biển Đông trước những thách thức to lớn.

Nguyên nhân chủ yếu là do trong Biển Đông đang tồn tại những tranh chấp phức tạp về địa - chính trị, địa - kinh tế, địa - chiến lược giữa các siêu cường, tiêu biểu là giữa Trung Quốc và Mỹ;

Tranh chấp về các quyền và lợi ích giữa các quốc gia trong và ngoài khu vực và do phải ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng, tài nguyên và môi trường bị phá hoại nghiêm trọng…

Tài liệu tham khảo:

1. Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982.

2. Vũ Quang Việt (2005),"Vấn đề tranh chấp biển Đông", tạp chí Thời Đại Mới  Số 4 - Tháng 3/2005.

3. PGS.TS. Nguyễn Bá Diến, “Các vùng khai thác chung trong Luật Quốc tế hiện đại”, tạp chí Khoa học.

4. Nguyễn Hồng Thao, “Nhứng điều cần biết về Luật Biển”, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, 1997.

5. PGS.TS. Nguyễn Bá Diến (chủ biên), Hợp tác khai thác chung trong Luật Biển quốc tế”, NXB Tư pháp, 2009.

6. Biển Đông và tầm quan trọng chiến lược của các nước trong khu vực, đăng tải trên trang web http://www.nhontrach-dongnai.gov.vn.

7. Đảng Cộng sản Việt Nam, 2007. Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X, Hà Nội.

8. Nguyễn Thanh Minh, 2011. Tiềm năng biển Việt Nam và chính sách hợp tác quốc tế về biển trong thập niên đầu thế kỷ XXI. Nxb. Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội. 2011. Bàn về các nguyên tắc cơ bản của Chiến lược biển Việt Nam trong thế kỷ XXI, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 7.

9. Vũ Dương Ninh, 2007. Việt Nam - Thế giới và sự hội nhập (một số công trình tuyển chọn). Nxb. Giáo dục, Hà Nội; Những định hướng cơ bản của chiến lượcbiển Việt Nam.

10. Infonet : “Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 như thế nào?” 10:27 - 05/05/2014 Hồng Chuyên (chọn đăng),

11. Ban Biên giới của Chính phủ, 1994, “Cơ sở khoa học cho việc xác định ranh giới ngoài thềm lục địa của Việt Nam”,Ủy ban Biên giới Quốc gia - Bộ Ngoại giao, “Giới thiệu một số vấn đề cơ bản của luật biển ở Việt Nam”, NXB: Chính trị Quốc gia, 2004.

12. Vụ Biển, Ban Biên giới của Chính phủ (2000), Tài liệu nghiên cứu về hợp tác khai thác chung thềm lục địa chồng lấn Việt Nam – Malaysia,

13. HỒNG THỦY, giaoduc.net.vn, 19/03/18: “Đánh giá của học giả Trung Quốc về chiến lược của Việt Nam ở Biển Đông.”

14. Tiệp Nguyễn / Viet times, Thứ Hai, ngày 25/6/2018 - 04:22 Báo Mỹ: “Việt Nam đã có chiến lược chiến thắng kẻ địch trên Biển Đông”.

Tiến sỹ Trần Công Trục