Vụ Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa bị kiện:

Cần xem xét lại Quyết định hành chính 2284

08/04/2013 10:50
Công Minh
(GDVN) - Nghiên cứu hồ sơ liên quan tới quá trình XXST tại TAND tỉnh Thanh Hóa trong vụ án Công ty CP Khôi Việt (Khôi Việt) kiện Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa "về quyết định hành chính và hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai", chúng tôi đã nhận thấy có một số nội dung như dưới đây.
Để rộng đường dư luận, chúng tôi mong muốn các chuyên gia về luật pháp trong lĩnh vực đất đai chia sẻ những ý kiến đối với các nghiên cứu và nhận định này.

Để đánh giá một quyết định hành chính có trái pháp luật hay không - cần phải căn cứ vào hình thức và nội dung quyết định. Liên quan đến Quyết định số 2284/QĐ-UBND ngày 25/7/2008 của Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa bấy giờ (do Ông Mai Văn Ninh ký - ông Ninh đã nắm giữ chức vụ Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa từ đầu năm 2008 tới 6/12/2010, hiện đang là Bí thư Tỉnh ủy Thanh Hóa), có nhiều dấu hiệu trái luật, có thể đơn cử một số nội dung cụ thể như dưới đây.

Phiên tòa sơ thẩm xét xử ở Thanh Hóa
Phiên tòa sơ thẩm xét xử ở Thanh Hóa


Thứ nhất, một trong các lý do Người bị kiện ban hành quyết định hành chính trong lĩnh vực đất đai đối với việc hủy bỏ kết quả đấu giá quyền sử dụng đất của Khôi Việt xuất phát từ lý do phía Người bị kiện cho rằng Khôi Việt chậm nộp tiền GPMB để có kinh phí bồi thường GPMB.

Như vậy, ở đây có sự liên quan đến pháp luật về thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất nên Quyết định 2284 phải đề cập đầy đủ đến căn cứ của pháp luật về đất đai đối với việc đầu tư xây dưng khu đô thị mới.

Bên cạnh đó, Người bị kiện cũng cho rằng Khôi Việt không thực hiện điều chỉnh quy hoạch theo quy định của pháp luật dẫn đến không thực hiện dự án, không nộp tiền GPMB thì cũng cần phải căn cứ vào quy định của pháp luật về quy hoạch để ban hành quyết định hành chính. Đáng tiếc, quyết định 2284 đã thiếu những căn cứ như vậy!

Mặt khác, thực tế Khôi Việt đã trúng đấu giá và được Chủ tịch UBND tỉnh phê duyệt kết quả trúng đấu giá tại Quyết định số 3013/QĐ-UBND ngày 23/10/2006, trên cơ sở đó mới triển khai giao kết Hợp đồng kinh tế ngày 6/11/2006 giữa Khôi Việt và Hội đồng đấu giá quyền SDĐ của tỉnh Thanh Hóa; hơn nữa phía Người bị kiện luôn khẳng định Khôi Việt vi phạm Hợp đồng kinh tế đã ký này để hủy kết quả trúng đấu giá thì cơ sở pháp lý của Quyết định 2284 cũng phải căn cứ cả trên Hợp đồng kinh tế ngày 6/11/2006 nữa.

Ngoài ra, cũng cần đề cập các văn bản pháp luật về đầu tư, xây dựng, doanh nghiệp,... để viện dẫn làm cơ sở pháp lý ban hành Quyết định hành chính mới bảo đảm đúng quy định về nội dung của Quyết định hành chính trong lĩnh vực đặc thù có liên quan. Do vậy, các căn cứ pháp lý tại Quyết định số 2284 là không đầy đủ, có quá nhiều thiếu sót.

Thứ hai, Người bị kiện chỉ căn cứ vào đề nghị của Giám đốc Sở Tài chính tại Tờ trình số 648TTr/STC ngày 24/3/2008 đề nghị hủy bỏ kết quả đấu giá quyền sử dụng đất của Khôi Việt là trái pháp luật. Ngoài nhiều quan điểm đã được trình bày tại Tòa cấp sơ thẩm thì còn dễ nhận thấy rằng căn cứ để ban hành Quyết định 2284 khi chấp nhận đề nghị của Giám đốc Sở Tài chính còn có Biên bản cuộc họp liên ngành của các cơ quan chức năng thuộc Tỉnh Thanh Hóa tại cuộc họp ngày 04/10/2006.

Thế nhưng, biên bản họp ngày 04/10/2006 lại là nội dung của phiên đấu giá quyền sử dụng đất mà Khôi Việt là đơn vị trúng đấu giá, chứ không phải biên bản cuộc họp và ý kiến của các sở ngành chức năng của tỉnh có liên quan tới tờ trình nói trên! Nếu căn cứ vào biên bản này thì quyết định 2284 hủy bỏ kết quả đấu giá là mâu thuẫn với nhau. Vì thế việc viện dẫn biên bản này vào quyết định 2284 là không có cơ sở. 

Quyết định số 2284/QĐ-UBND ngày 25/7/2008
Quyết định số 2284/QĐ-UBND ngày 25/7/2008


Thêm vào đó, Giám đốc Sở Tài chính không thể tự mình thay thế cho đề nghị của các sở ngành bằng tờ trình như đã làm gửi lên Chủ tịch UBND tỉnh để đề nghị hủy kết quả trúng đấu giá. Bởi vì tại cuộc họp liên ngành nào đó không chỉ có Sở Tài Chính mà còn có Sở Tài nguyên & Môi trường, Sở Xây dựng, Sở Kế hoạch & đầu tư, Cục thuế Thanh Hóa, UBND thành phố Thanh Hóa, thậm chí là có cả Khôi Việt, cho nên nên Giám đốc Sở Tài chính không thể một mình đứng ra đại diện cho các cơ quan khác (khi không có ủy quyền) đề nghị Chủ tịch UBND tỉnh hủy quyết định trúng đấu giá.

Thứ ba, đặc biệt khi ban hành quyết định hành chính 2284 Người bị kiện không dựa trên văn bản nào đề cập đến hành vi vi phạm của Khôi Việt là vấn đề gì, đã trao đổi làm việc với Khôi Việt ra sao trước khi ra Quyết định hành chính hủy bỏ kết quả trúng đấu giá của Khôi Việt là không bảo đảm nguyên tắc ban hành quyết định hành chính liên quan đến chủ thể phải thi hành quyết định và gánh chịu thiệt hại từ quyết định này là Khôi Việt. 

Trên thực tế, Khôi Việt đã bỏ quá nhiều công sức cho dự án đầu tư xây dựng khu đô thị mới Quảng Thành tại TP. Thanh Hóa từ tháng 8/2003, chưa hề nhận được gì ngoài việc đầu tư trí tuệ, nhân lực, tiền bạc, thời gian để theo đuổi dự án; đã gánh chịu tình trạng dự án treo bởi quyết định 2284 ngày 25/7/2008 của Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa. Và từ đó tới nay đã tốn bao công của theo đuổi việc khiếu nại rồi đến khiếu kiện! Gần 10 năm mà câu trả lời vẫn còn để ngỏ... 

Chưa kể, trong các điều khoản của quyết định 2284 cũng không hề chỉ ra bất kể một lý do hay một căn cứ cụ thể nào về sai phạm nào đó của Khôi Việt. Một quyết định hành chính quan trọng đến thế, không chỉ đối với riêng mình Khôi Việt trong dự án diện tích 147,47ha quy mô bằng một phường của đô thị loại II, mà Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa cứ "khơi khơi thích hủy là hủy".

Như vậy, mới chỉ điểm qua một số căn cứ nói trên, có thể nói rằng, về yêu cầu tuyên bố Quyết định hành chính số 2284/QĐ-UB ngày 25/7/2008 của Người bị kiện hủy kết quả trúng đấu giá là trái pháp luật, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm lại bác yêu cầu khởi kiện của Khôi Việt và cho rằng đó là quyết định hành chính đúng quy định của pháp luật là chưa thuyết phục!

Nếu đi sâu chi tiết vào quyết định 2284 thì còn rất nhiều sai phạm về cả hình thức lẫn nội dung của một quyết định hành chính, nhất đây lại là quyết định của Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa.



Công Minh