Chính sách bảo hiểm xã hội là trụ cột chính của an sinh xã hội

19/11/2018 14:54
Ngọc Hân
(GDVN) - Phát triển bảo hiểm xã hội sẽ là tiền đề và điều kiện để thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của người dân

Trong những năm qua, chính sách bảo hiểm xã hội của Việt Nam đã từng bước được hoàn thiện, hướng tới mở rộng phạm vi bao phủ, tạo cơ hội cho mọi người dân trong việc tiếp cận, tham gia, thụ hưởng chính sách. Điều này góp phần bảo đảm an sinh xã hội, đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của người dân.

Trong hệ thống an sinh xã hội thì hệ thống bảo hiểm xã hội giữ vai trò trụ cột, bền vững nhất. Phát triển bảo hiểm xã hội sẽ là tiền đề và điều kiện để thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Điểm nhấn trong Nghị quyết số 28-NQ/TW về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội đó là thực hiện đồng bộ các nội dung cải cách nhằm mở rộng diện bao phủ bảo hiểm xã hội, hướng tới mục tiêu bảo hiểm xã hội toàn dân.

Hơn nữa, bảo đảm cân đối quỹ bảo hiểm xã hội trong dài hạn, điều chỉnh lương hưu độc lập tương đối trong mối tương quan với tiền lương của người đang làm việc, thay đổi cách thức điều chỉnh lương hưu theo hướng chia sẻ. Tất cả những đổi mới ấy đều hướng đến mục tiêu an sinh bền vững.

Tại Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 23/5/2018 về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội, Trung ương đã đưa ra mục tiêu “từng bước mở rộng vững chắc diện bao phủ bảo hiểm xã hội, hướng tới mục tiêu bảo hiểm xã hội toàn dân” với 11 nội dung cải cách cũng như 5 nhóm nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu được xác định chính là “chìa khóa” để mở ra cánh cửa đi tới mục tiêu quan trọng này, để bảo hiểm xã hội thật sự là một trụ cột chính của hệ thống an sinh xã hội.

Cải cách chính sách bảo hiểm xã hội vừa mang tính cấp bách, vừa mang tính lâu dài; kết hợp hài hòa giữa kế thừa, ổn định với đổi mới, phát triển và phải đặt trong mối tương quan với phát triển các chính sách xã hội khác, nhất là chế độ tiền lương, thu nhập, trợ giúp xã hội để mọi công dân đều được bảo đảm an sinh xã hội.

Việc phát triển hệ thống tổ chức thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội bảo đảm tinh gọn, chuyên nghiệp, hiệu quả, hiện đại, nâng cao tính hấp dẫn, củng cố niềm tin và sự hài lòng của người dân cũng như các chủ thể tham gia bảo hiểm xã hội.

Trong Nghị quyết số 28-NQ/TW nêu rõ: “Thực hiện đồng bộ các nội dung cải cách nhằm mở rộng diện bao phủ bảo hiểm xã hội, hướng tới mục tiêu bảo hiểm xã hội toàn dân; bảo đảm cân đối quỹ bảo hiểm xã hội trong dài hạn, điều chỉnh lương hưu độc lập tương đối trong mối tương quan với tiền lương của người đang làm việc, thay đổi cách thức điều chỉnh lương hưu theo hướng chia sẻ”.

Chính vì thế, cải cách chính sách bảo hiểm xã hội cần được thực hiện với quyết tâm chính trị cao và với sự đồng hành của cả hệ thống chính trị.

Các cơ quan chức năng, Ngành bảo hiểm xã hội và tổ chức công đoàn cần chủ động phối hợp cải cách chính sách bảo hiểm xã hội và tăng cường quản lý bảo hiểm xã hội theo hướng mở rộng diện bao phủ, đa tầng và đa dạng hóa các mức đóng - hưởng bảo hiểm xã hội cho các nhóm đối tượng phù hợp, theo nguyên tắc “có đóng - có hưởng, chia sẻ và bảo đảm quyền lợi, nghĩa vụ của các bên: Cơ quan quản lý Nhà nước, cơ quan tổ chức thực hiện, doanh nghiệp, người dân, người lao động”;

Gắn cải cách chính sách bảo hiểm xã hội với cải cách chính sách tiền lương, thị trường lao động, cơ chế quản lý quỹ bảo hiểm xã hội theo lộ trình phù hợp khả năng kinh tế và ngân sách Nhà nước, không gây sốc trong xã hội, bảo đảm an toàn quỹ bảo hiểm xã hội, nhất là quỹ hưu trí và phù hợp với các cam kết hội nhập quốc tế; nâng cao tính hấp dẫn, củng cố niềm tin và sự hài lòng của người dân, cũng như các chủ thể tham gia bảo hiểm xã hội.

Đồng thời, cần nghiên cứu các giải pháp cụ thể để đáp ứng yêu cầu vừa mở rộng đối tượng hưởng chế độ bảo hiểm xã hội một lần cho người đóng mắc các trọng bệnh nguy hiểm rút ngắn tuổi thọ, vừa phải làm giảm quy mô số lượt người nhận bảo hiểm xã hội một lần do thiếu thời gian tham gia hoặc do việc làm thiếu ổn định, hướng tới mục tiêu bảo hiểm xã hội toàn dân, duy trì việc làm, bảo đảm quyền lợi chính đáng của doanh nghiệp và người lao động;

Tăng thẩm quyền và trách nhiệm của cơ quan bảo hiểm xã hội trong việc tuân thủ pháp luật, ngăn chặn trốn đóng, nợ đóng, gian lận, trục lợi quỹ bảo hiểm xã hội, bảo đảm sự đồng thuận, ổn định chính trị và tiến bộ, công bằng xã hội, chất lượng đời sống nhân dân, phát triển bền vững đất nước.

Niềm tin, sự hấp dẫn và hài lòng của người dân, doanh nghiệp

Theo Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Nghị quyết số 28-NQ/TW về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội có ba điểm đột phá lớn:

Một là, mở rộng diện bao phủ bảo hiểm xã hội hướng tới mục tiêu bảo hiểm xã hội toàn dân thông qua việc xây dựng hệ thống bảo hiểm xã hội đa tầng; sửa đổi quy định về điều kiện đóng bảo hiểm xã hội tối thiểu để hưởng lương hưu theo hướng giảm thời gian đóng bảo hiểm xã hội xuống 15 năm và lộ trình hướng đến 10 năm;

Điều chỉnh công thức tính lương hưu theo nguyên tắc công bằng, đóng - hưởng, chia sẻ; mở rộng đối tượng tham gia bắt buộc đến nhóm chủ hộ kinh doanh cá thể, người quản lý điều hành hợp tác xã không hưởng tiền lương, người lao động làm việc theo chế độ linh hoạt.

Tăng cường sự liên kết, hỗ trợ giữa các chính sách; cải cách trong thiết kế chính sách và tổ chức thực hiện nhằm củng cố niềm tin của người tham gia vào hệ thống; đẩy nhanh quá trình chuyển dịch lao động từ khu vực phi chính thức sang khu vực chính thức.

Hai là, đảm bảo cân đối tài chính quỹ trong dài hạn. Cụ thể, sửa đổi, khắc phục bất hợp lý về chế độ hưu trí theo hướng linh hoạt hơn về điều kiện hưởng, chặt chẽ hơn trong quy định hưởng bảo hiểm xã hội một lần, tăng tuổi nghỉ hưu bình quân thực tế.

Sửa đổi các quy định về mức đóng, căn cứ đóng bảo hiểm xã hội để đạt mục tiêu tăng trưởng diện bao phủ với mức hưởng khiêm tốn thay vì mức hưởng cao nhưng diện bao phủ hẹp. Điều chỉnh tỷ lệ hưởng lương hưu tối đa phù hợp thông lệ quốc tế.

Ba là, thực hiện điều chỉnh lương hưu độc lập tương đối và trong mối tương quan với tiền lương của người đang làm việc.

Như vậy, khi triển khai thực hiện ba đột phá trên sẽ đem lại hiệu quả to lớn, mở rộng mạng lưới an sinh, giúp cho nhiều người dân được tiếp cận “quyền được bảo đảm an sinh xã hội” đã được Hiến pháp quy định; củng cố niềm tin, sự hấp dẫn và hài lòng của người dân cũng như các chủ thể tham gia bảo hiểm xã hội.

Điều gì có lợi cho người dân, chắc chắn sẽ được ủng hộ và đem đến những lợi ích thiết thực nhất. Đây là tiền đề cho phát triển bền vững. Với mục tiêu giảm dần số năm đóng bảo hiểm xã hội tối thiểu để được hưởng chế độ hưu trí từ 20 năm xuống 15 năm, hướng tới còn 10 năm với mức hưởng được tính toán phù hợp, tạo điều kiện cho người lao động cao tuổi, có số năm tham gia bảo hiểm xã hội thấp nhưng vẫn được tiếp cận và thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm xã hội.

Ngoài ra, nhằm giảm tình trạng hưởng bảo hiểm xã hội một lần, hướng tới mục tiêu an sinh xã hội trong dài hạn, Nghị quyết số 28-NQ/TW nêu rõ, sẽ quy định theo hướng tăng quyền lợi nếu bảo lưu thời gian tham gia bảo hiểm xã hội để hưởng chế độ hưu trí, giảm quyền lợi nếu hưởng bảo hiểm xã hội một lần.

Đồng thời, sẽ sửa đổi các quy định để khuyến khích người lao động tham gia bảo hiểm xã hội thời gian dài hơn, từng bước tăng tuổi nghỉ hưu bình quân, tăng tỷ lệ giảm trừ tiền lương hưu đối với người lao động muốn nhận chế độ hưu trí sớm. Bên cạnh đó, đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc sẽ được mở rộng với các nhóm chủ hộ kinh doanh, người quản lý doanh nghiệp, người quản lý, điều hành hợp tác xã không hưởng tiền lương, người lao động làm việc theo chế độ linh hoạt.

Hơn nữa, Nghị quyết đề ra nhiệm vụ nghiên cứu thiết kế các gói bảo hiểm xã hội tự nguyện ngắn hạn linh hoạt để người lao động có nhiều sự lựa chọn tham gia và thụ hưởng.

Đồng thời, tạo điều kiện chuyển đổi thuận lợi giữa bảo hiểm xã hội tự nguyện và bảo hiểm xã hội bắt buộc, hướng tới chính sách bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với toàn bộ người lao động có việc làm, có thu nhập và tiền lương khi có đủ điều kiện cần thiết...

Ngọc Hân