Đất nước khó qua đói nghèo khi nguồn nhân lực thấp kém

17/11/2015 06:48
TS. Lê Viết Khuyến
(GDVN) - “Ở Việt Nam, cả hai loại nguồn lực tài chính và tài nguyên thiên nhiên đều hạn chế nên nguồn lực con người đương nhiên sẽ đóng vai trò quyết định”.

LTS: Tập trung xây dựng một hệ thống giáo dục đa dạng, phân tầng, đáp ứng yêu cầu nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa và hội nhập quốc tế cho Việt Nam hiện đang là nhiệm vụ cấp thiết.

Liên quan tới nội dung này, Báo điện tử Giáo dục Việt Nam nhận được bài viết của TS. Lê Viết Khuyến (Trưởng ban hỗ trợ chất lượng giáo dục đại học – Hiệp hội các trường đại học, cao đẳng Việt Nam).

Vấn đề được chia thành 3 nội dung cơ bản, ở bài đầu tiên TS. Lê Viết Khuyến sẽ làm rõ những điều cấp thiết cần có được nguồn lực chất lượng để hội nhập.

Tòa soạn trân trọng gửi tới quý bạn đọc.  

Sau nhiều năm thực hiện đường lối đổi mới toàn diện, đất nước ta đã vượt qua giai đoạn thử thách gay go, đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và đang có những bước đi vững vàng.

Bước sang thời kỳ mới các Văn kiện Đại hội Đảng những khoá gần đây cũng như Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đều khẳng định phải đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá để từng bước thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.

Sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước đòi hỏi phải có nguồn lực. Đối với Việt Nam, cả hai loại nguồn lực tài chính và tài nguyên thiên nhiên đều hạn chế nên nguồn lực con người đương nhiên sẽ đóng vai trò quyết định.
So với các nước láng giềng Việt Nam có lợi thế đông dân.

Tuy nhiên, nếu không được qua đào tạo thì dân đông sẽ là gánh nặng về dân số, còn nếu qua đào tạo chu đáo thì sẽ trở thành nguồn nhân lực lành nghề tác động trực tiếp lên tốc độ tăng trưởng kinh tế của toàn quốc gia.  

TS. Lê Viết Khuyến (Trưởng ban hỗ trợ chất lượng giáo dục đại học – Hiệp hội các trường đại học, cao đẳng Việt Nam). Ảnh Xuân Trung
TS. Lê Viết Khuyến (Trưởng ban hỗ trợ chất lượng giáo dục đại học – Hiệp hội các trường đại học, cao đẳng Việt Nam). Ảnh Xuân Trung

Một đội ngũ nhân lực lành nghề và đồng bộ cũng tạo nên sức hấp dẫn to lớn để thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt nam. Vì thế, Báo cáo Chính trị Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (1996) đã chỉ rõ: “...Giáo dục và Đào tạo là quốc sách hàng đầu, phương hướng chung của lĩnh vực giáo dục và đào tạo là phát triển nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước...”. 

Báo cáo Chính trị Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X (2006) cũng nêu rõ: “... tạo nền tảng để đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại…”, “... rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và công nghiệp hóa,hiên đại hóa...”. 

Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011 - 2020 (tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, năm 2011) cũng nêu: “...Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao... Đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu đa dạng, đa tầng của công nghệ và trình độ phát triển của các lĩnh vực, ngành nghề...”.

Đất nước khó qua đói nghèo khi nguồn nhân lực thấp kém ảnh 2

Những nội dung nào cần phải sửa để giáo dục Việt Nam theo kịp với các nước?

(GDVN) - Từ những bứt phá mạnh của giáo dục đại học, sẽ đặt ra những yêu cầu về chất lượng đầu vào của đại học, tác động trực tiếp đến nội dung chương trình…

Từ những quan điểm như trên, Nghị quyết 29-NQ/TW của Hội nghị TW8 Khóa XI về đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo đã nêu rõ: “…Hình thành hệ thống giáo dục nghề nghiệp với nhiều phương thức và trình độ đào tạo kỹ năng nghề nghiệp…” và “…Hoàn thành mạng lưới các cơ sở giáo dục đại học, cơ cấu ngành nghề và trình độ đào tạo phù hợp với quy hoạch phát triển nhân lực quốc gia…”.

Vậy nên hiểu như thế nào về một hệ thống giáo dục, chính xác hơn là về một hệ thống giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học đa đạng, phân tầng, về quy mô, cơ cấu ngành nghề và cơ cấu trình độ của đội ngũ nhân lực mà ngành giáo dục và đào tạo được giao nhiệm vụ chuẩn bị cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước ở các thập niên đầu của thế kỷ 21?

Quy mô, phân tầng và chất lượng giáo dục 

Giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học không hướng trực tiếp tới mục đích phát triển dân trí. Tuy nhiên, với sự phát triển nhanh chóng của khoa học, kỹ thuật và công nghệ, quy mô đào tạo đại học ở nhiều nước đang không ngừng gia tăng và ở một số thời điểm, có sự gia tăng đột biến. 

Theo phân loại được thừa nhận hiện nay, một quốc gia nếu có tỷ lệ dân số trong độ tuổi 18 đến 22 được tiếp thu giáo dục đại học (chính xác hơn là giáo dục sau trung học) - được gọi là tỷ lệ nhập học đại học - đạt dưới 15 % thì nền giáo dục của quốc gia đó được xem đang ở giai đoạn tinh hoa – giai đoạn hướng chủ yếu vào việc đào tạo các học giả và một số chuyên gia. 

Còn khi tỷ lệ trên nằm trong khoảng 15-50% - giáo dục đại học chuyển qua giai đoạn đại chúng; vượt quá 50 % - qua giai đoạn phổ cập – với mục tiêu là đào tạo ra không chỉ có các học giả mà còn có cả một đội ngũ rất hùng hậu gồm các chuyên gia, nhà công nghệ, kỹ thuật viên và công nhân kỹ thuật cao. 

Theo báo cáo giáo dục của Ngân hàng thế giới (WB) –2012 thì tỷ lệ này ở Hoa Kỳ là 95% (2010), ở Pháp là 57% (2010), ở Australia là 80% (2010), ở Hàn quốc là 103 % (2010), ở Thái Lan là 48% (2011). 

Trong khi đó, Việt Nam mặc dù đã rất cố gắng, thậm chí phải đổi giá về chất lượng, hãy còn dừng lại ở con số rất khiêm tốn là 24 % (2011), nằm dưới mức trung bình của thế giới là 30 %. Một báo cáo mới đây của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) cũng đưa ra nhận xét về tỷ lệ nhập học đại học của các quốc gia ASEAN còn khá thấp dẫn đến hạn chế năng lực của lực lượng lao động trình độ cao tại khu vực này.

Phân tầng giáo dục đại học là sự thừa nhận tính đa dạng về sứ mệnh của các cơ sở giáo dục đại học. Khái niệm giáo dục đại học phân tầng trên thực tế chỉ gắn với một nền giáo dục đại học đại chúng (mass higher education) - một trong những đòi hỏi để bảo đảm cho một quốc gia bước qua giai đoạn hiện đại hóa.

Ở Việt Nam, vấn đề phân tầng giáo dục đại học tuy được nhắc đến nhiều nhưng dường như chỉ dừng lại ở sự “ban phát danh hiệu” của Nhà nước.

Không ít trường đại học tuy được xếp vào loại “trọng điểm”, “định hướng nghiên cứu”, “đào tạo nhân lực chất lượng cao”, “xuất sắc” … nhưng lại có chi phí đơn vị rất thấp, quy mô sinh viên quá lớn và bỏ qua nhiệm vụ nghiên cứu khoa học. Trong khi đó một số trường lẽ ra thuộc tầng dưới lại đuổi theo mục tiêu nghiên cứu khoa học, đào tạo tiến sỹ.  

Đất nước khó qua đói nghèo khi nguồn nhân lực thấp kém ảnh 3

Kiến nghị của ba Hiệp hội về Cơ cấu hệ thống giáo dục và cơ chế phân luồng

(GDVN) - Hiệp hội các trường đại học, cao đẳng Việt Nam, Hội Khuyến học Việt Nam và Hiệp hội vì giáo dục cho mọi người vừa có bản kiến nghị gửi Phó Thủ tướng.

Có quan niệm đơn giản cho rằng chỉ cần giảm quy mô đào tạo là có thể nâng cao được chất lượng giáo dục đại học, bắt nguồn từ cách nhìn kiểu “học giả” của giáo dục đại học tinh hoa để xem xét vấn đề chất lượng giáo dục đại học ở thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Theo những học giả này thì chất lượng phải là cái tuyệt hảo và do vậy nó chỉ có được ở số ít, không thể có ở số đông.

Tuy nhiên, dưới cách hiểu của các nhà quản lý, không thể định ra một chuẩn mực chất lượng duy nhất cho tất cả các cơ sở đại học và cao đẳng.

Trong quy hoạch mạng lưới các trường đại học và cao đẳng đến năm 2010 của Việt Nam có các loại hình trường khác nhau như đại học quốc gia, đại học khu vực, trường đại học trọng điểm, học viện, trường đại học, trường cao đẳng, trường đại học mở và trường cao đẳng cộng đồng. 

Mỗi loại trường có một sứ mệnh khác nhau và do đó, có những chuẩn mực chất lượng khác nhau nên không thể lấy cái nhìn kiểu “học giả” để áp đặt các chuẩn mực chất lượng của các đại học quốc gia, hay của các trường đại học trọng điểm cho các trường đại học địa phương, trường đại học mở, trường cao đẳng và cao đẳng cộng đồng để rồi cho rằng đó là những loại trường kém chất lượng, không “xứng đáng” được đứng trong hàng ngũ đại học.

Sơ đồ phân luồng học sinh, sinh viên Việt Nam từ sau 2015 của ba Hiệp hội.
Sơ đồ phân luồng học sinh, sinh viên Việt Nam từ sau 2015 của ba Hiệp hội.

Đây là quan điểm chính thống của tất cả các nước trong việc xây dựng hệ thống bảo đảm chất lượng và kiểm định chất lượng giáo dục đại học của mình.

Việt Nam khó là nước công nghiệp vào năm 2020

Đào tạo nguồn nhân lực đòi hỏi phải đầu tư rất tốn kém. Do đó, các kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực phải bám sát chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, thậm chí của từng vùng miền, từng địa phương. 

Các mục tiêu của giáo dục và đào tạo từ nay tới năm 2020 phải được xây dựng và phải thường xuyên được điều chỉnh xuất phát từ các mục tiêu về phát triển kinh tế - xã hội của đất nước đã được khẳng định trong các Văn kiện của các Đại hội VIII , IX , X và XI. 

Căn cứ vào nhu cầu của thị trường nhân lực những năm gần đây, có thể rút ra một kết luận là chúng ta không thể đưa đất nước vượt qua đói nghèo, tiến nhanh, tiến kịp thời đại chỉ với nguồn nhân lực quá thấp kém về trình độ khoa học và công nghệ vì không được qua đào tạo (mặc dù có bằng tốt nghiệp THPT).

Thậm chí được đào tạo ở mức dưới chuẩn chuyên môn như hiện nay. Cũng không thể nóng vội phát triển ồ ạt nguồn nhân lực trình độ cao không tương thích với trình độ công nghệ đại trà của đất nước, vùng miền. 

Theo Báo cáo điều tra lao động và việc làm Việt Nam năm 2011 của Tổng cục Thống kê trong tổng số lực lượng lao động đang làm việc (từ 15 tuổi trở lên) 84,6% không có trình độ chuyên môn kỹ thuật, 4% qua dạy nghề, 3,7% trung cấp chuyên nghiệp, 1,7% cao đẳng và 6,1% đại học. 

Khung cơ cấu Hệ thống giáo dục Việt Nam sau năm 2015.
Khung cơ cấu Hệ thống giáo dục Việt Nam sau năm 2015.

Với cơ cấu trình độ nhân lực như vậy Việt Nam sẽ không đạt được mục tiêu trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. 

Trong khi ở các nước khu vực đội ngũ công nhân được đào tạo chủ yếu từ trình độ trung học nghề trở lên, còn đội ngũ kỹ thuật viên chủ yếu từ trình độ cao đẳng trở lên thì ở Việt Nam, cả hai lực lượng này vẫn còn được đào tạo chủ yếu ở các trình độ tương ứng là sơ cấp và trung cấp (không tương đương với các cấp độ 2 và 3 của ISCED 2011). 

Nhận định đó cũng được phản ánh rõ nét qua kết quả đánh giá tổng hợp nguồn nhân lực của Tổ chức BERI (Business Enviroment Risk Intelligence) mà theo đó thì Việt Nam được xếp vào nhóm nước cuối cùng, nhóm nước có kỹ năng nghề nghiệp ở dưới mức tiêu chuẩn. 

Đây là một hạn chế lớn của đội ngũ nhân lực ta hiện nay và sẽ chưa thể được khắc phục chừng nào các chuyên gia hoạch định chính sách phát triển nhân lực cho Việt Nam còn chưa nhận thức được trong điều kiện khoa học và công nghệ hiện đại, tương ứng với mỗi chức danh trong dây chuyền sản xuất có thể có nhiều trình độ đào tạo khác nhau chứ không phải cứ như nếp nghĩ cũ rằng chỉ có một trình độ đào tạo duy nhất.

Xu hướng chung của giáo dục thế giới hiện nay là giáo dục nghề đang xâm nhập ngày càng sâu vào lĩnh vực giáo dục đại học, để cùng với giáo dục đại học truyền thống, hình thành nên nền giáo dục sau trung học (Postsecondary Education) hoặc giáo dục bậc ba (Tertiary Education).

Điều này góp phần quan trọng đưa giáo dục đại học ở nhiều nước chuyển nhanh từ giai đoạn tinh hoa qua giai đoạn đại chúng và tiếp đó là giai đoạn phổ cập, đáp ứng kịp thời nhu cầu nhân lực cho sự ra đời một nền kinh tế tri thức ở những nước đó. 

Trong khi đó ở Việt Nam hai hệ thống này đang ngày càng tách xa nhau và đang được hoạch định bởi hai dòng chính sách độc lập với nhau. Việc tách trình độ cao đẳng ra khỏi giáo dục đại học để hợp nhất với các trình độ sơ cấp và trung cấp hình thành một bậc học riêng biệt (theo Luật Giáo dục nghề nghiệp) là một biểu hiện rõ ràng của khuynh hướng đó.

Bài tới: Không tái cấu trúc hệ thống, giáo dục khó bật lên

TS. Lê Viết Khuyến