Kết quả thẩm định Tiếng Việt 1 Công nghệ giáo dục của Giáo sư Hồ Ngọc Đại

31/10/2017 09:13
Thùy Linh
(GDVN) - Ngày 23/10, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chính thức gửi kết quả đánh giá Tài liệu Tiếng Việt 1 Công nghệ giáo dục tới Đại biểu Quốc hội Nguyễn Thị Kim Thúy.

LTS: Tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XIV, Đại biểu Nguyễn Thị Kim Thúy (đoàn Đà Nẵng) đặt ra nhiều câu hỏi đề nghị Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Phùng Xuân Nhạ làm rõ trách nhiệm trong việc thử nghiệm sách công nghệ giáo dục ở nhiều tỉnh trên cả nước.

Khi đó Bộ trưởng Nhạ hứa sẽ trả lời Đại biểu Quốc hội Nguyễn Thị Kim Thúy bằng văn bản. 

Ngày 30/10, Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam có cuộc trao đổi với Đại biểu Quốc hội Nguyễn Thị Kim Thúy về nội dung mà Đại biểu đã chất vấn Bộ trưởng Nhạ trong kỳ họp năm 2016. 

Tòa soạn trân trọng cảm ơn Đại biểu Nguyễn Thị Kim Thúy đã nhận lời trả lời Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam và xin giới thiệu đến quý bạn đọc nội dung cuộc trao đổi này. 


Phóng viên: Đã tròn 1 năm kể từ khi bà chất vấn Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ về vấn đề sách Công nghệ giáo dục, đến nay (tháng 10/2017), bà đã nhận được kết quả đánh giá tài liệu Tiếng Việt 1 Công nghệ giáo dục từ Bộ trưởng hay chưa?

Đại biểu Nguyễn Thị Kim Thúy:
Ngày 23/10/2017, tôi chính thức nhận được văn bản của Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ về kết quả đánh giá tài liệu Tiếng Việt 1 Công nghệ giáo dục

Theo đó tôi được biết, thực hiện lời hứa với tôi, với Quốc hội, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã cử một số đoàn công tác đi khảo sát, đánh giá hiệu quả thực hiện tài liệu Tiếng Việt 1 Công nghệ giáo dục tại các địa phương trên toàn quốc. 

Dựa trên kết quả khảo sát thực địa đó, ngày 19/4/2017, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Quyết định thành lập Hội đồng Quốc gia thẩm định Tài liệu Tiếng Việt 1 Công nghệ giáo dục. 

Đến ngày 12, 13/5/2017, Hội đồng Quốc gia thẩm định Tài liệu Tiếng Việt 1 Công nghệ giáo dục đã họp để đánh giá tài liệu này. 

Trên cơ sở kết luận của Hội đồng Quốc gia thẩm định, Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam đã tổ chức chỉnh sửa Tài liệu và xin lại ý kiến góp ý của Hội đồng.

Đại biểu Quốc hội Nguyễn Thị Kim Thúy - Đoàn Đà Nẵng chất vấn tại Hội trường trong Kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XIV (Ảnh: quochoi.vn)
Đại biểu Quốc hội Nguyễn Thị Kim Thúy - Đoàn Đà Nẵng chất vấn tại Hội trường trong Kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XIV (Ảnh: quochoi.vn)

Sau khi được Hội đồng góp ý, tài liệu Tiếng Việt 1 Công nghệ giáo dục đã được chỉnh sửa, đáp ứng yêu cầu và mục tiêu giáo dục ở cấp tiểu học được quy định trong chương trình giáo dục phổ thông cấp tiểu học hiện hành. 

Hội đồng thẩm định đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo cho phép tiếp tục triển khai thí điểm tài liệu Tiếng Việt 1 Công nghệ giáo dục trong năm học 2017-2018 trên tinh thần tự nguyện

Năm 2016, bà có đề nghị Bộ trưởng cho biết những cuốn sách công nghệ giáo dục được đưa vào giảng dạy ở trường tiểu học (do Giáo sư Hồ Ngọc Đại biên soạn - PV) từ trước khi có Nghị quyết 88 của Quốc hội về đổi mới chương trình sách giáo khoa giáo dục phổ thông có được Hội đồng thẩm định Quốc gia thẩm định và kiến nghị Bộ trưởng cho sử dụng hay không?

Đến nay, Bộ trưởng đã trả lời về vấn đề này như thế nào, thưa bà?


Đại biểu Nguyễn Thị Kim Thúy: Về nội dung này, tôi được Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ trả lời rằng:

Tài liệu Tiếng Việt 1 Công nghệ giáo dục thể hiện rõ nhiệt huyết và công phu của nhóm tác giả trong việc biên soạn và thể nghiệm một hướng dạy học tiếng Việt cho học sinh lớp 1. 

Tài liệu được tạo ra một số nét khác biệt đáng ghi nhận trong phương pháp dạy học tiếng Việt.

Trong tương lai, nếu được nâng cao chất lượng, tài liệu này có thể được sử dụng như là một cuốn sách giáo khoa trong số những cuốn sách giáo khoa khác nhau khi cả nước áp dụng chương trình giáo dục phổ thông mới và chủ trương “một chương trình, nhiều sách giáo khoa” có hiệu lực. 

Kết quả thẩm định Tiếng Việt 1 Công nghệ giáo dục của Giáo sư Hồ Ngọc Đại  ảnh 2

Giáo sư Hồ Ngọc Đại: “Học trò viết sai câu là do thầy không biết cách dạy”

Dĩ nhiên, điều kiện tiên quyết là tài liệu này phải được Hội đồng quốc gia thẩm định sách giáo khoa mới thẩm định và thông qua như tất cả các sách giáo khoa khác. 

Trước mắt, tài liệu Tiếng Việt 1 Công nghệ giáo dục cần được chỉnh sửa cẩn thận theo yêu cầu của Hội đồng thẩm định.

Nếu việc chỉnh sửa đáp ứng yêu cầu của Hội đồng và được Bộ Giáo dục và Đào tạo cho phép thì tài liệu này có thể đưa vào nhà trường như là sách giáo khoa (có thể dưới hình thức thử nghiệm trong phạm vi không rộng) cho đến khi có chương trình mới. 

Sau khi nhóm tác giả chỉnh sửa (và giải trình, nếu có), Chủ tịch, Phó chủ tịch và Thư ký sẽ thay mặt Hội đồng thẩm định đọc lại tài liệu Tiếng Việt 1 Công nghệ giáo dục để có kết luận về kết quả chỉnh sửa. 

Trong kết quả đánh giá tài liệu Tiếng Việt 1 Công nghệ giáo dục, trách nhiệm của 2 Bộ trưởng (Bộ trưởng Phạm Vũ Luận, Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ) đã được đề cập chưa, thưa bà?

Đại biểu Nguyễn Thị Kim Thúy: Tôi chưa thấy điều này. Bởi lẽ toàn bộ văn bản mà tôi nhận được chỉ bao gồm: 

Thông tin kết quả đánh giá tài liệu Tiếng Việt 1 Công nghệ giáo dục kèm theo Quyết định thành lập Hội đồng quốc gia thẩm định tài liệu Tiếng Việt 1 Công nghệ giáo dục;

Danh sách  Hội đồng quốc gia thẩm định tài liệu Tiếng Việt 1 Công nghệ giáo dục và Kết luận của Hội đồng quốc gia thẩm định tài liệu Tiếng Việt 1 Công nghệ giáo dục. 

Xin bà cho biết cụ thể hơn về danh sách Hội đồng quốc gia thẩm định tài liệu Tiếng Việt 1 Công nghệ giáo dục và Kết luận của Hội đồng quốc gia thẩm định tài liệu Tiếng Việt 1 Công nghệ giáo dục?

Đại biểu Nguyễn Thị Kim Thúy:
Danh sách Hội đồng quốc gia thẩm định tài liệu Tiếng Việt 1 Công nghệ giáo dục gồm 13 người. 

Cụ thể: 

Danh sách Hội đồng quốc gia thẩm định tài liệu Tiếng Việt 1 Công nghệ giáo dục gồm 13 người (Ảnh Đại biểu Nguyễn Thị Kim Thúy chụp tài liệu)
Danh sách Hội đồng quốc gia thẩm định tài liệu Tiếng Việt 1 Công nghệ giáo dục gồm 13 người (Ảnh Đại biểu Nguyễn Thị Kim Thúy chụp tài liệu)

Còn Kết luận của Hội đồng quốc gia thẩm định tài liệu Tiếng Việt 1 Công nghệ giáo dục cũng đã chỉ ra ưu điểm, hạn chế của mục tiêu chương trình; Phương pháp dạy học và đánh giá kết quả học tập; Nội dung dạy học; Ngữ liệu; Cấu trúc sách và cấu trúc bài học và Hình thức trình bày. 

Cụ thể, Hội đồng thẩm định đã có kết luận như sau: 

1. Điều kiện tiên quyết


-Nội dung của Tài liệu Tiếng Việt 1 Công nghệ giáo dục phù hợp với quy định của pháp luật Việt Nam; không có những định kiến xã hội về giới, sắc tộc, tôn giáo, nghề nghiệp, tuổi, địa vị. 

-Việc đưa Tài liệu Tiếng Việt 1 vào nhà trường sử dụng như sách giáo khoa có phù hợp với quy định của pháp luật Việt Nam hay không thì không nằm trong phạm vi đánh giá của Hội đồng thẩm định tài liệu này

2. Thể hiện mục tiêu của chương trình


a. Ưu điểm

Tài liệu Tiếng Việt 1 đáp ứng một số mục tiêu của chương trình môn Tiếng Việt, nhất là mục tiêu giúp học sinh hình thành và phát triển kỹ năng đọc thành tiếng, viết chính tả, góp phần rèn luyện các thao tác tư duy cho học sinh; cung cấp một số kiến thức về tiếng Việt, về tự nhiên, xã hội và con người, về văn hóa và văn học. 

b. Hạn chế

- Mục tiêu giúp học sinh phát triển kỹ năng nói và nghe chưa được thể hiện trong tài liệu. Các hướng dẫn, hoạt động giúp học sinh đọc hiểu bài đọc như tìm hiểu nghĩa của từ, nội dung của câu và đoạn văn, trả lời câu hỏi đọc hiểu chưa được chú trọng. Vì vậy học sinh có thể đọc thành tiếng văn bản nhưng không hiểu nghĩa. 

-Tài liệu cũng chưa đáp ứng tốt mục tiêu giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, hạn chế này thể hiện rõ nhất qua phần ngữ liệu. 

Đại biểu Nguyễn Thị Kim Thúy đã nhận được câu trả lời về sách Tiếng Việt 1 công nghệ giáo dục nhưng trong đó trách nhiệm của Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ chưa được đề cập (Ảnh: Đại biểu Nguyễn Thị Kim Thúy cung cấp)
Đại biểu Nguyễn Thị Kim Thúy đã nhận được câu trả lời về sách Tiếng Việt 1 công nghệ giáo dục nhưng trong đó trách nhiệm của Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ chưa được đề cập (Ảnh: Đại biểu Nguyễn Thị Kim Thúy cung cấp)

3. Phương pháp dạy học và đánh giá kết quả học tập

a. Ưu điểm

-Vận dụng định hướng học qua thực hành, giúp học sinh hiểu khái niệm và có kỹ năng ngôn ngữ. Thông qua “chuỗi việc làm” trên lớp theo yêu cầu “thầy thiết kế, trò thi công” để học sinh tự hình thành kiến thức và rèn luyện kỹ năng đọc và viết.

- Tài liệu Tiếng Việt 1 giúp học sinh nắm vững các quy định về chính tả để viết đúng và phát triển kỹ năng đọc thành tiếng. Phương pháp “lập mẫu” và “dùng mẫu” để học sinh tự lập ra các vần mới, tiếng mới có những hiệu quả nhất định. 

- Tài liệu đã đưa những câu trọn vẹn ngay trong phần đầu của tập 1, giúp học sinh sớm có cơ hội luyện đọc câu (tuy nhiên đôi khi không được tự nhiên). 

- Một số hoạt động, chẳng hạn thao tác phân tích tiếng bằng tay, có phần khơi gợi được hứng thú của học sinh. 

- Tuần 0 thực sự có ý nghĩa trong việc giúp học sinh làm quen với những quy ước và thao tác căn bản ban đầu, giúp quá trình của học sinh diễn ra một cách thuận lợi và hiệu quả. 

b. Hạn chế

- Việc thiết kế quy trình chi tiết, ràng buộc quá chặt chẽ đối với cả giáo viên và học sinh có thể hạn chế sự sáng tạo của giáo viên và hứng thú của học sinh. Hoạt động dạy học lặp đi lặp lại, nếu tiếp tục trong khoảng thời gian dài sẽ làm cho hoạt động dạy học trở nên đơn điệu. 

- Việc rèn luyện cho học sinh kỹ năng phân tích cấu trúc âm tiết và luyện phát âm đối với học sinh bản ngữ (tiếng Việt) không thật sự cần thiết và không phù hợp với phương pháp học bản ngữ. 

Hiện nay ngay cả khi dạy học ngôn ngữ thứ hai và ngoại ngữ, phương pháp phân tích cấu trúc ngữ âm như cách của Tài liệu Tiếng Việt 1 cũng ít khi được sử dụng. 

- Quan điểm “chân không về nghĩa” không đúng với bản chất của ngôn ngữ và không phù hợp với thực tiễn dạy học ngôn ngữ, trái với nguyên tắc dạy học tiếng theo quan điểm giao tiếp. 

- Việc sử dụng phương tiện dạy học chưa được quan tâm đúng mức. 

- Việc kiểm tra, đánh giá tập trung chủ yếu vào kỹ năng đọc thành tiếng và viết chính tả của học sinh….

Trân trọng cảm ơn Đại biểu Quốc hội Nguyễn Thị Kim Thúy!

Thùy Linh