Bất ngờ lạm phát 2012

12/02/2013 07:12
Vũ Đình Ánh/Thời báo kinh tế Việt Nam
Dấu ấn rõ rệt nhất của lạm phát năm 2012 là đã bất ngờ tái lập được sự ổn định sau hai năm 2012 – 2011 đầy bất ổn, góp phần tích cực vào mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô.

Hai năm liên tiếp 2010 – 2011 thị trường giá cả đầy biến động với CPI lên tới gần 20% năm 2011 đã buộc Việt Nam phải chuyển trọng tâm chính sách ưu tiên tăng trưởng kinh tế sang ưu tiên ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát thông qua những biện pháp nêu trong Nghị quyết số 11/2011/NQ – CP và nếu lại trong Nghị quyết số 01/2012/NQ – CP.
Trọng tâm của chính sách kiềm chế lạm phát là thắt chặt chính sách kinh tế vĩ mô đi đôi với kiểm soát chặt chẽ thị trường và giá cả.

Lạm phát tăng thấp bất ngờ

Mục tiêu kiểm soát lạm phát ở mức 1 con số cho cả năm 2012 bị đe dọa ngay từ đầu năm khi CPI 2 tháng đầu năm lại đảo chiều tăng lên 1% sau 5 tháng liên tiếp chỉ tăng dưới 1% kể từ tháng 8/2011.
Bên cạnh đó, thị trường giá cả còn biến động mạnh do yếu tố lễ tết và hàng loạt nhiên liệu thiết yếu như điện, than, xăng dầu chịu áp lực tăng giá trên thị trường thế giới. Nhằm giảm bớt áp lực tăng giá, ngày 21/2/2012, Bộ tài chính đã ban hành Thông tư 25/2012/TT – BTC giảm thuế suất thuế nhập khẩu đồng loạt đối với nhóm hàng xăng dầu. Tuy nhiên, so với cuối năm 2011, CPI tháng 2 vẫn tăng tới 2,38%, trong đó, giá thực phẩm tăng tới 4,18% và giá nhóm nhà ở, vật liệu xây dựng tăng 4,22%.
Một số ý kiến cho rằng nguy cơ lạm phát đã quay trở lại và cảnh báo khó có thể giữ được mục tiêu lạm phát 1 con số cho cả năm. Chính vì vậy, lộ trình tăng giá điện bị trì hoãn và áp lực tăng giá xăng dầu không chỉ được giảm bớt nhờ chính sách thuế nhập khẩu mà còn tích cực xả quĩ bình ổn giá xăng dầu.

Dấu ấn rõ rệt nhất của lạm phát năm 2012 là đã bất ngờ tái lập được sự ổn định sau hai năm 2012 – 2011 đầy bất ổn, góp phần tích cực vào mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô.
Dấu ấn rõ rệt nhất của lạm phát năm 2012 là đã bất ngờ tái lập được sự ổn định sau hai năm 2012 – 2011 đầy bất ổn, góp phần tích cực vào mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô.

Mặc dù vậy giá xăng dầu cũng chỉ giữ được đến đầu tháng 3 trước khi tăng vọt từ ngày 7/3/2012 rồi lại tăng tiếp từ ngày 20/4/2012 với mức tăng tổng cộng tới 14,4%, đưa giá xăng dầu lên mức cao kỷ lục từ trước tới nay. Theo đó, giá cước taxi và giá cả một số hàng hóa dịch vụ khác cũng có dấu hiệu tăng giá xăng dầu.
Nhưng trái hẳn với dự báo của một số chuyên gia, thị trường giá cả không chỉ trong tháng 3 mà kéo dài đến tận tháng 8/2012 lại diễn biến rất ổn định, thậm chí thay vì lo ngại lạm phát cao do biến động giá xăng dầu lại chớm mỗi lo nền kinh tế rơi vào giảm phát khi CPI hai tháng liên tiếp là tháng 6 và tháng 7 lần lượt giảm 0,26% và 0,29% - hiện tượng CPI âm chưa hề xuất hiện kể từ tháng 3/2009.
Xu thế lạm phát tính theo năm giảm dần kể từ mức đỉnh 23% vào tháng 8/2011 được khẳng định chắc chắn khi xuống đến mức đáy 5,04% vào tháng 8/2012. Sau 8 tháng, so với cuối năm 2011 nên đã có thể khẳng định chắc chắn kiềm chế lạm phát cả năm ở mức một con số.
Diễn biến lạm phát ổn định liên tục suốt 6 tháng có sự đóng góp không nhỏ của việc 5 lần liên tiếp điều chỉnh giảm giá xăng dầu đưa về mức còn thấp hơn so với đầu năm 2012. Kết quả nổi bật của điều hành thị trường xăng dầu và điện là biến động giá cả của hai nhóm vốn thường xuyên dẫn đầu về tốc độ tăng giá trong mấy năm gần đây là nhóm giao thông và nhóm quà ở, vật liệu xây dựng đã tăng chậm hẳn lại.
So với cuối năm 2011, chỉ số giá nhóm nhà ở vật liệu xây dựng tháng 7 chỉ tăng 2,89% và tháng 8 tăng 4,98% do giá điện bình quân tăng 5% kể từ 1/7/2012 còn chỉ số giá nhóm giao thông tháng 8 thậm chí chỉ tăng 2,6% - thấp hơn cả mức tăng CPI chung. Mặc dù, giá xăng dầu lại tăng liên tiếp 4 lần từ cuối tháng 7/2012 trước khi giảm nhẹ vào tháng 11/2012 song chỉ số giá nhóm giao thông cả năm 2012 chỉ tăng 6,67% so với cuối năm trước – mức tăng thấp xa so với mức tăng tương ứng tới 19,04% của năm 2011. 
Bên cạnh đó, việc trì hoãn tăng giá điện thêm 5% đến tận ngày 21/12/2012 thay vì tăng ngay từ đầu quý IV/2012 cũng trực tiếp tác động làm chỉ số giá nhóm nhà ở, vật liệu xây dựng cả năm 2012 chỉ tăng 9,18%, nghĩa là chỉ bằng hơn một nửa so với mức tăng tương ứng tới 17,29% của năm 2011.
Đáng chú ý là chỉ số giá nhóm hàng ăn và dịch ăn uống vốn chiếm tỷ trọng 39,39% trong rổ hàng hóa dịch vụ tính CPI lại tăng rất thấp trong năm 2012. So với cuối năm trước, CPI nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống năm 2012 chỉ tăng vỏn vrj có 1,01% trong đó giá thực phẩm tăng 0,95% còn chỉ số giá nhóm lương thực giảm tới 5,66%. Đây là bức tranh hoàn toàn trái ngược với năm 2011 khi các chỉ số tương ứng lần lượt là 24,8%, 27,38% và 18,98%.
Nếu diễn biến thị trường giá cả năm 2012 ghi dấu ấn bởi những yếu tố thường xuyên gây bất ổn mấy năm gần đây là giá năng lượng, giao thông, lương thực và thực phẩm lại bất ngờ ít gây ra những biến động lớn thì diễn biến giá dịch vụ lại gây bất ngờ lớn và tác động mạnh tới lạm phát năm 2012, đặc biệt là giá thuốc và dịch vụ y tế.
Từ tháng 7/2012, chỉ số giá nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng tới 17,2%, riêng chỉ số giá dịch vụ y tế tăng vọt 23,87% so với tháng trước. Mặc dù thuốc và dịch vụ y tế chỉ chiếm 5,61% trong rổ tính chỉ số giá hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng song do mức điều chỉnh quá mạnh và đồng loạt ở nhiều địa phương nên CPI suốt 7 tháng đầu năm khiến cho hồi chuông lạm phát cao lại rung lên dữ dội.
Ngay lập tức, Thủ tướng Chính phủ đã có Chỉ thị số 25/2012/CT – TTg ngày 26/9/2012 tăng cường công tác quản lý, điều hành và bình ổn giá những tháng cuối năm 2012 với nội dunng chủ yếu là giãn tiếp độ điều chỉnh tăng giá điện và dịch vụ y tế.
Chỉ nhờ sự chỉ đạo kiên quyết và kịp thời của Chính phủ và thị trường giá cả quí IV/2012 đã nhanh chóng ổn định trở lại và nguy cơ tái lạm phá cao đã bị đẩy lùi. Chỉ số giá tiêu dùng 3 tháng cuối năm 2012 tăng chậm trở lại, góp phần tích cực vào thành tích CPI cả năm tăng 6,81% so với cuối năm trước và bình quân cả năm tăng 9,21% - đạt mục tiêu kiềm chế lạm phát đặt ra từ đầu năm.
Đứng từ góc độ thị trường giá cả, tăng vọt của chỉ số giá nhóm thuốc và dịch vụ y tế năm 2012 có thể được giải thích bởi áp lực san bằng “răng cưa giá cả” do nếu do với kỳ gốc 2009 thì sau khi tăng vọt vào năm 2012, chỉ số giá nhóm thuốc và dịch vụ y tế cũng chỉ ngang bằng với chỉ số giá nhóm ăn uống ngoài ra gia đình và nhóm nhà ở vật liệu xây dựng, tuy cao hơn không nhiều so với chỉ số giá nhóm giáo dục.
Theo đó chỉ số giá nhóm thước và dịch vụ y tế có thể tiếp tục tăng trong năm 2013 nhằm giảm bớt chênh lêch với chỉ số giá nhóm giáo dục đồng thời cần có biện pháp can thiệp kịp thời để hạn chế bớt xu thế tăng chỉ số của các nhóm lương thực, thực phẩm, giao thông, nhà ở và vật liệu xây dựng vì cùng lý do này khi các biện pháp kích cầu, “hâm nóng” thị trường và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế được triển khai trong năm 2013. 
Sự cơ bản ổn định của lạm phát năm 2012 có thể được duy trì trong năm 2013 hay không không chỉ phụ thuộc vào việc rút ra những bài học kinh nghiệm cần thiết từ quản lý điều hành thị trường giá cả các nguyên nhiên vật liệu thiết yêu như điện, tham xăng dầu, gas… hay dịch vụ quan trọng như giáo dục và y tế mà còn phụ thuộc vào khả năng những biến động của các yếu tố vĩ mô tác động tới lạm phát năm 2012 có tiếp diễn trong năm 2013.
Lạm phát bị chi phối bởi tổng cầu tăng chậm
Sự ổn định của lạm phát năm 2012 là kết quả và chịu sự chi phối rất lớn của sự tăng chậm lại rõ rệt của tổng cầu, cả tổng cầu tiêu dùng và tổng cầu đầu tư, cả tổng cầu trong nước và xuất khẩu.
Tổng vốn đầu tư toàn xã hội quí I/2012 đột ngột tăng lên 36,2% GDP từ mức 34,6% GDP năm 2011 trước khi giảm xuống 34,5% GDP sau 6 tháng rồi lại tăng lên 35,8% GDP sau 9 tháng rồi lại bất ngờ hạ cuống còn 33,5% GDP cả năm 2012 – mức thấp nhất trong hơn 10 năm qua.
Đáng chú ý là tỷ tọng vốn đầu tư của khu vực kinh tế nhà nước năm 2012 vẫn duy trì ở mức 37,8% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, trong đó có vốn đầu tư từ NSNN vẫn chiếm gần 55% chứng tỏ tổng vốn đầu tư rất dễ bị tác động bởi chương trình cơ cấu tại đầu tư công có thể sẽ được triển khai mạnh hơn trong năm 2013.
Đầu tư của khu vực ngoài nhà nước năm 2013 cũng khó có thể duy trì tốc độ tăng 8,1% và chiếm tỷ trọng 38,9% như năm 2012 do những khó khăn mà khu vực này đang đối mặt trong khi tình hình đầu tư nước ngoài cũng khó cải thiện với tốc độ tăng cả năm 2012 chỉ 1,4%.
Tổng vốn FDI đăng ký cấp mới và tăng tốn năm 2012 đạt 13,013 tỷ USD, chỉ bằng 84,7% so với năm 2011 còn vốn FDI đã giải ngân cũng chỉ được 10,46 tỷ USD, bằng 95,1% so với cùng kỳ năm 2011. Xu thế sụt giảm đầu tư FDI có thể vẫn tiếp diễn trong năm 2013.
Hệ quả là mặc dù sản xuất công nghiệp chững lại với chỉ số sản xuất công nghiệp chỉ tăng có 4,8% song do sức mua tăng chậm với chỉ số tiêu thụ hàng công nghiệp chế biến chế tạo chỉ tăng khoảng 4% nên chỉ số hàng tồn kho của nhóm hàng này tăng tới hơn 20% so với cùng kỳ năm trước.
Bên cạnh đó, mặc dù tổng kim ngạch XK năm 2012 tăng 18,3% đạt 114,6 tỷ USD ( nếu loại trừ yếu tố giá, kim ngạch  hàng hóa XK tăng 18,9%) song lại chủ yếu do thành tích xuất khẩu của khu vực có vốn FDI còn khu vực kinh tế trong nước chỉ XK được 42,3 tỷ USD, tăng 1,3%. 
Đến lượt mình, nếu không kể dầu thô thì kim ngạch hàng hóa XK của khu vực có vốn FDI đạt 63,9 tỷ USD, tăng 33,5% so với năm trước nhưng tập trung vào một số mặt hàng điện thoại và linh kiện (đạt 12,6 tỷ USD, tăng 97,7%), điện tử máy tính ( đạt 7,9 tỷ USD, tăng 69,1%),… thuộc nhóm hàng XK có tỷ trọng gia công cao nên không chỉ hiệu quả XK và lượng ngoại tệ thực thu thấp mà còn ít hỗ trợ tăng sức mua và tổng cầu của nên kinh tế.
Do sức mua trong và ngoài nước đều tăng chậm nên phần lớn doanh nghiệp Việt Nam gặp khó khăn về đầu ra cho các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ suốt cả năm 2012. Do những khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm đi đôi với chi phí đầu vào cao nên năm 2912 đã có thêm khoảng 5 vạn doanh nghiệp giải thể, ngừng hoạt động, đưa tổng số doanh nghiệp thể ngừng hoạt động trong 2 năm 2011 và 2012 lên đến 10 vạn chiếm hơn một nửa số doanh nghiệp loại này trong suốt 2 thập kỷ qua.
Đến lượt mình, doanh nghiệp gặp khó khăn lại hạn chế tạo công ăn việc làm, thậm chí làm gia tăng thất nghiệp và giảm thu nhập của người lao động, tạo ra vòng xoáy cắt giảm tiêu dùng.
Kiềm chế lạm phát năm 2012 còn được sự hỗ trợ của ổn định tỷ giá hối đoái suốt cả năm 2012 với tỷ giá hối đoái liên ngân hàng cố định ở mốc 20.828 VND/USD. Chỉ số giá vàng tháng 12/2012 chỉ tăng 0,4% so với năm trước, bình quân cả năm tăng 7,83% và chỉ số giá đô la Mỹ thậm chí còn giảm 0,96% và bình quân cả năm tăng có 0,18%.
Song song với chính sách ổn định tỷ giá hối đoái, chính sách tiền tệ và tín dụng ngân hàng thận trọng đã góp phần tích cực vào kiềm chế lạm phát năm 2012. Mặt bằng lãi suất cũng được kéo giảm xuống rõ rệt trong năm 2012 nhằm ổn định thị trường tiền tệ ngân hàng.
Mặc dù trần lãi suất huy động đã giảm mạnh từ 14% năm 2011 xuống 8% vào cuối năm 2012 nhưng tổng tiền gửi bằng VND của dân cư vấn tăng tới 36% và tổng phương tiện thanh toán tăng khoảng 20% trong khi tổng tín dụng chỉ tăng khoảng 7% với lãi suất cho vay 12-15%/năm – giảm nhiều so với mức 25%/năm của năm 2011.
Chính sách tài khóa năm 2012 tuy chưa thật sự thắt chặt nhằm kiềm chế lạm phát song cũng không nới lỏng chi tiêu NSNN để có thể gây ra lạm phát cao. Trong khi tổng thu cân đối NSNN năm 2012 đạt 741,5 ngàn tỷ đồng, tăng 0,14% so với dự toán và tăng 5,3% so với năm 2011 thì tổng chi NSNN kiềm chế ở mức 904,1 ngàn tỷ đồng, chỉ tăng 0,11% so với dự toán và tăng 14,6% so với năm 2011 nên vẫn duy trì được bội chi NSNN ở mức 4,8%GDP.
Đầu tư công năm 2012 cũng được quản lý chặt chẽ hơn theo chỉ thị 1792/2011/CT – TTg ngày 15/10/2011 về tăng cường quản lý đầu tư vốn NSNN và vốn trái phiếu chính phủ.
Tóm lại, dấu ấn rõ rệt nhất của lạm phát năm 2012 là đã bất ngờ tái lập được sự ổn định sau hai năm 2012 – 2011 đầy bất ổn, góp phần tích cực vào mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên  sự ổn định của lạm phát 2012 chưa  thực sự vững chắc do chủ yếu chịu sự chi phối của tổng cầu tăng thấp, cả cầu đầu tư và cầu tiêu dùng bên cạnh niềm tin kinh doanh và niềm tin tiêu dùng không cao.
Sang năm 2013, diễn biến lạm phát một mặt vẫn chịu dự tác động bởi các chính sách quản lý thị trường giá cả truyền thống cũng như xu thế tiếp tục tăng chậm của tổng cầu đầu tư và tiêu dùng, mặt khác, lại chịu ảnh hưởng của các chính sách kích cầu, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và cố gắng đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn năm 2012.
Chính vì vậy, nhiệm vụ kiềm chế lạm phát năm 2013 sẽ phức tạp và khó khăn hơn nhiều so với năm 2012, theo đó, các cơ chế chính sách trực tiếp và gián tiếp tác động đến lạm phát yêu cầu sự thận trọng hơn nhiều lần, kể cả từ dự báo diễn biến, năm bắt nguyên nhân, qui luật vận động đến hoạch định và thực thi chính sách.
* Mời độc giả đóng góp, cho ý kiến và gửi những bài viết của mình theo địa chỉ: toasoan@giaoduc.net.vn hoặc có thể BẤM VÀO ĐÂY để phản hồi!
Vũ Đình Ánh/Thời báo kinh tế Việt Nam