Luật Giáo dục hiện hành không "ăn khớp" với khung cơ cấu

25/01/2017 07:20
Thùy Linh
(GDVN) - Nếu đối chiếu với Luật Giáo dục hiện hành thì khung cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân còn thể hiện nhiều bất cập.

Hỏi: Cuối năm 2016, Thủ tướng Chính phủ ký quyết định phê duyệt khung cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân.

So với khung cơ cấu được ban hành từ năm 1993, khung cơ cấu này có nhiều điểm mới, tuy nhiên, theo ông, nếu đối chiếu với Luật Giáo dục hiện hành thì khung cơ cấu này có đáp ứng không? 

TS.Lê Viết Khuyến: Tôi thấy rằng, khung cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân lần này có điểm mới so với khung cơ cấu cũ là đã tạo ra được 2 luồng, hàn lâm và ứng dụng trong giáo dục đại học để người học có thể học tiếp lên và để đa dạng các loại nhân lực, điều này phù hợp với xu hướng thế giới. Nhánh đại học thể hiện tiêu chí học vấn rõ ràng. 

Tuy nhiên, nếu đối chiếu với Luật Giáo dục hiện hành thì khung cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân còn thể hiện nhiều bất cập. 

Có thể thấy, khung cơ cấu chỉ chủ yếu tập trung ở các mảng giáo dục cơ bản (bao gồm giáo dục tiểu học và giáo dục trung học cơ sở) và mảng giáo dục đại học

Riêng khu vực giáo dục giữa giáo dục đại học và giáo dục trung học cơ sở còn nhiều bất hợp lý, lẫn lộn.

Luật Giáo dục hiện hành không "ăn khớp" với khung cơ cấu ảnh 1
Khung cơ cấu hệ thống Giáo dục quốc dân theo Quyết định 1981/QĐ-TTg (Ảnh: giaoduc.net.vn)

Sơ đồ không nêu rõ điều kiện đầu vào của các trình độ cũng như không chỉ ra căn cứ để liên thông lên cao đẳng (liệu có giống Luật Giáo dục nghề nghiệp hay không?). 

Ở mảng giáo dục chuyên nghiệp (bao gồm các trình độ sơ cấp và trung cấp nghề) vẫn được tách ra riêng biệt, không được sắp xếp theo một trật tự nhất quán của hệ thống giáo dục quốc dân.

Trung cấp nghề, theo đó cho dù đã kéo ra 3 năm (không phải chỉ có 1- 2 năm như ở Luật Giáo dục nghề nghiệp) nhưng không thể xem là tương ứng với cấp độ THPT.

Như vậy, không thể khuyến khích học sinh đi theo luồng dạy nghề vì chẳng có ai tự nguyện bỏ thời gian và công sức đi theo luồng học nghề mà khi có nhu cầu học lên cao đẳng hoặc đại học lại phải “chạy” thêm một bằng tốt nghiệp THPT nữa.

Từ đó, tồn tại tình trạng học sinh theo luồng học nghề rất ít, trong khi  sau THCS cho tới nay có gần 90% học sinh theo luồng THPT.

Nhiều địa phương đặt mục tiêu phổ cập THPT trong khi Nghị quyết 29/NQ-TW của Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục – đào tạo lại đặt mục tiêu phân luồng triệt để học sinh sau THCS.

Kết quả là rất thiếu lực lượng lao động có trình độ bậc trung. Để giải quyết vấn đề này, sau THCS cần phải có 2 luồng là luồng THPT và luồng trung học nghề (chứ không phải trung cấp) đó cũng là xu hướng của thế giới. 

Cùng với đó phải “khơi thông” được học sinh từ trung học (nghề) lên cao đẳng và sau đó lên đại học định hướng thực hành - ứng dụng

Vì vậy, cần sớm sửa đổi trung cấp thành trung học nghề để cấp học này bình đẳng với trung học phổ thông, tạo căn cứ pháp lý cho người học trung học nghề vừa có nghề để gia nhập thị trường lao động, lại vừa có cơ hội để học lên bậc cao hơn. 

Tháng 11/2016, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc ký quyết định phê duyệt khung cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân gồm 4 cấp học: mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học.

Trong đó mầm non gồm nhà trẻ và mẫu giáo; giáo dục phổ thông gồm tiểu học, THCS và THPT. Giáo dục nghề nghiệp gồm trình độ sơ cấp, trung cấp và cao đẳng. Giáo dục đại học gồm trình độ đại học, thạc sĩ và tiến sĩ.

So với khung hệ thống giáo dục quốc dân được ban hành từ năm 1993, khung mới này không thay đổi về thời gian đào tạo ở các cấp mầm non, giáo dục phổ thông, nghĩa là học sinh vẫn sẽ học 5 năm tiểu học, 4 năm THCS và 3 năm THPT. Học hết bậc THCS, học sinh được phân luồng mạnh mẽ theo hai hướng hoặc là THPT, hoặc là Trung cấp.

Tốt nghiệp hai bậc học trên, học sinh có thể đi tiếp lên cao đẳng (2-3 năm), hoặc đại học theo định hướng nghiên cứu, hoặc đại học theo định hướng ứng dụng. So với trước kia, thời gian đào tạo bậc đại học đã rút ngắn từ 4-6 năm xuống còn 3-5 năm. Thời gian học cao đẳng thay vì ấn định 3 năm, nay linh động 2-3 năm.

Bậc cao học (còn gọi thạc sĩ) trước đây phải học 2 năm, nay dù là thạc sĩ định hướng nghiên cứu hay định hướng ứng dụng đều 1-2 năm. Riêng bậc tiến sĩ, trước kia nếu xong cao học, người học chỉ cần học 2 năm tập trung, nhưng nay phải là 3 năm; với người có trình độ đại học vẫn học 4 năm.

Khung cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân làm rõ hai định hướng nghiên cứu và ứng dụng, áp dụng từ bậc đại học và thạc sĩ. Theo đó, chương trình đào tạo định hướng nghiên cứu có mục tiêu và nội dung chuyên sâu về nguyên lý, lý thuyết cơ bản trong các lĩnh vực khoa học, phát triển công nghệ nguồn làm nền tảng để phát triển lĩnh vực khoa học ứng dụng và công nghệ.

Các chương trình đào tạo định hướng ứng dụng có mục tiêu và nội dung phát triển kết quả nghiên cứu cơ bản, ứng dụng công nghệ nguồn thành giải pháp công nghệ, quy trình quản lý, thiết kế công cụ hoàn chỉnh phục vụ nhu cầu đa dạng của con người. 

Thùy Linh