Hòa giải: Chuyện thật ở quê và chuyện ảo trên mạng

30/04/2014 08:37
Độc giả Nguyễn Vĩnh
(GDVN) - "Với người dân quê tôi, cuộc chiến cách đây gần 40 năm đã thực sự kết thúc".

Đi qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, không nơi nào trên dải đất hình chữ S - Việt Nam, lại không ghi dấu những chiến tích hào hùng và những đau thương, mất mát do chiến tranh để lại.

Nhưng để chọn một vùng đất như là biểu tượng, phản ánh cô đọng và toàn diện nhất ý chí quật cường của con người và sự huỷ diệt khốc liệt của chiến tranh, thì không có nơi nào hơn miền nắng lửa, gió Lào - Quảng Trị. 

Nhưng có lẽ chính những khó khăn vất vả lại càng tôi luyện nên ý chí và tính cách con người nơi đây. Mỗi tấm gương sáng trên mảnh đất đau thương này cũng có thể thổi bùng lên sức sống của cả một dân tộc. 

Báo Giáo dục Việt Nam xin giới thiệu một bài viết với tiêu đề "Hòa giải: Chuyện thật ở quê và chuyện ảo trên mạng" của chính một người con đất Quảng tên là Nguyễn Vĩnh.

Chuyện thật ở quê – Di chứng chiến tranh vẫn còn nhưng lòng người đã nguôi ngoai.

Tôi sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Quảng Trị miền Trung có lẽ là khắc nghiệt nhất nước. Người ta bảo, do miền đất mảnh mai nhưng lại nặng gánh hai đầu đất nước, mới khổ như vậy. Riêng với tôi, từ lúc sinh ra và lớn lên, lại thấy quê mình không khổ lắm, bởi đấy là miền đất thấm đẫm thương yêu. Rất có thể nơi tôi sinh ra cũng có cơm ăn, áo mặc, có nhà ở và tình người, thế là đủ cho một cuộc sống hạnh phúc.

Chiến tranh đã lùi xa, nhưng ở mảnh đất mà theo tính toán là mỗi người dân phải hứng chịu 5 tấn bom, thì những dấu vết của cuộc chiến vẫn còn ở khắp nơi. Mảnh đất Quảng Trị quê tôi là thế đó.

Khi tôi còn nhỏ, chưa có các chương trình rà phá bom mìn, thứ vũ khí ấy có thể thấy khắp nơi. Những hố bom chi chít giữa đồng, giữa nghĩa địa và có cả những hố bom cạnh nhà; đấy là nơi hè về, mọi người thường rủ nhau tát cá. Cạnh những hố bom, rải rác khắp nơi là những quả bom còn chưa nổ.

Tháng 4 mùa gặt, trời đổ nắng như thiêu như đốt. Cái gió Lào dường như làm oi bức tăng thêm gấp bội. Thỉnh thoảng giữa trưa lại có tiếng “đùng” vang lên như tiếng sấm. Mọi người lại ngóng tai xem bom nổ ở đâu, có ai chết hay bị thương gì không. Vài giờ sau mà có tiếng xe cấp cứu là không khí thôn quê lại chùng xuống thật tang thương.

Tôi thấy nhiều người thường băn khoăn về cuộc chiến đã xa gần 40 năm là nội chiến hay ngoại xâm. Với tôi, kể từ lúc nghe ba mẹ và ông bà nói rằng, những quả bom đó là của Mỹ, thì tôi đã tin rằng Mỹ xâm lược Việt Nam. Nếu không xâm lược thì không có lý gì mà rải lên quê tôi bao nhiêu là bom như vậy. Đấy là chưa kể tới chất độc màu da cam.

Mỗi độ tháng 4 về, quê tôi lại tổ chức một buổi lễ để kỷ niệm ngày đất nước thống nhất bên cây cầu Hiền Lương bắc qua sông Bến Hải. Những ngày đó, thay vì không khí hân hoan, quê tôi lại thường chìm trong hoài niệm thương đau của chiến tranh.

Người ta thường cầu siêu, thả đèn hoa đăng trên dòng Bến Hải và Thạch Hãn: nơi mà cả vạn người đã trầm mình xuống lòng sông, làm phù sa bồi đắp đôi bờ. Rồi mọi người thường tổ chức từng đoàn vào viếng nghĩa trang Đường 9 và Trường Sơn.

Ngoài kỷ lục về số bom mìn trên đầu người thì quê tôi còn có một kỷ lục nữa, đấy là tất cả các xã phường đều có nghĩa trang liệt sĩ. 9 huyện thị với cả trăm xã phường mà ở đâu cũng có nghĩa trang với cả chục vạn ngôi mộ. Chạy qua bất kỳ con đường lớn nào trong tỉnh cũng thấy bóng dáng của nghĩa trang.

Có lẽ vì thế mà hai từ “Chiến thắng” thiếu vắng trong tâm khảm của người dân quê tôi. Chỉ có từ thống nhất là được nhắc đến nhiều mà thôi. Nhưng có lẽ cũng bởi như thế nên người dân quê tôi, với gánh nặng hai miền, bước ra khỏi cuộc chiến: không có bên thắng cuộc, cũng như bên thua cuộc. Chúng tôi thuộc về bên đau đớn, mất mát và buồn của chiến tranh, cũng vui mừng khi nó kết thúc.

Ông nội tôi lúc sinh thời có kể với tôi rằng, làng tôi nằm trong vùng “ngày Quốc Gia đêm Việt Cộng”. Làng tôi nằm ở bờ Nam sông Bến Hải, thuộc vào vùng quản lý của Việt Nam Cộng hòa. Nhưng đêm đến, lại là vùng hoạt động của Việt Cộng. Không những chỉ làng tôi mà cả xã tôi đều như vậy.

Trong xã có rất nhiều người đi lính Quốc gia nhưng cũng không ít người theo Cộng sản, hoạt động nằm vùng. Anh em mỗi người một phe, cha con, hai người hai ngả, không phải là hiếm. Ông tôi kể rằng có những lúc anh em trong nhà đánh nhau vì mỗi người một phe. Tôi không biết khi gặp nhau ngoài chiến trường, họ có đủ can đảm để bắn nhau không?

Khi cuộc chiến qua đi, mọi người đều trở về quê và chung sống với nhau. Từ nhỏ đến giờ,tôi chưa từng thấy ở quê tôi có một xung đột nào xảy ra giữa một người đi lính cộng hòa và một người đi theo cộng sản vì quá khứ đi lính cả. Mọi người sống với nhau rất chan hòa.

Những người đi Mỹ theo diện HO đến Tết hoặc lúc về thăm quê thường tặng quà cho cả làng không phân biệt ai cả. Trong những đám giỗ ở quê, tôi vẫn thường nghe cả cả hai phe kể về những cuộc hành quân của họ. Không chút hận thù nào, chỉ là những câu chuyện về một thời đã qua.

Có lẽ với người dân quê tôi, cuộc chiến cách đây gần 40 năm đã thực sự kết thúc. Chỉ còn tình yêu thương và nỗi buồn ở lại mà thôi. Bởi thế hòa giải dân tộc, đấy là từ hoàn toàn xa lạ với tôi và vùng quê nghèo này.

Chuyện trên mạng ảo – Cuộc chiến và chia rẽ vẫn tiếp tục

Sinh ra và lớn lên ở mảnh đất như vậy, nên khi mạng xã hội bắt đầu nở rộ, tôi khá bất ngờ đọc thông tin trên mạng và thấy cả sự hằn học và hận thù. Tôi cứ ngỡ chiến tranh ít nhất cũng đã phần nào lùi vào dĩ vãng. Nhưng không, cuộc chiến vẫn chưa kết thúc.

Bút chiến, một cuộc chiến chia rẽ dân tộc không kém gì cuộc chiến cách đây gần 40 năm. Bới móc quá khứ, kết tội đồng bào mình; những việc đó cứ tiếp diễn từng phút trên các trang mạng.

Sự hận thù ngày càng dày lên, tìm mỏi mắt cũng không thấy tình yêu và sự khoan dung. Cộng sản hay Quốc gia, tất cả cũng chỉ là sản phẩm của lịch sử. Đứng ở thời đại này mà phê phán sự lựa chọn của thời đại trước thì e rằng cả đời này cũng phê phán không hết.

Sao không dẹp bỏ tất cả đi để cùng nhìn về tương lai? Sao không can đảm bước ra khỏi cuộc chiến đã ngưng tiếng súng từ gần 40 năm trước? Nó đã mang lại cho đất nước này, dân tộc này quá nhiều đau thương rồi, hôm nay không cần tạo thêm nữa.

Đến giờ, tôi vẫn thật sự không hiểu, vì sao người lại ghét người đến thế. Những người có tuổi, họ đã đi qua cuộc chiến, họ có những mất mát, họ có thể bị ám ảnh bởi điều đấy. Nhưng những bạn trẻ, những người có khả năng đọc và thấu hiểu, hơn nữa lại được sinh ra sau cuộc chiến, có nhiều thông tin đa chiều, nhưng vì sao họ lại mang lòng thù hận lớn đến thế?

Vì sao những người dân quê tôi, những người chịu nhiều mất mát nhất ở đất nước này, họ có thể hòa giải một cách dễ dàng. Trong khi đó hố sâu ngăn cách đang được đào ngày càng rộng ở trên mạng ảo. Phải chăng, họ chưa biết đau nỗi đau của chiến tranh?

Vài dòng kết

Hiểu biết và tình yêu thương, đấy là những gì đất nước và dân tộc cần để đi xa. Nếu làm được việc gì có thể hàn gắn, để yêu thương, thì hãy cứ làm đi, đừng ngần ngại. Hãy để tình yêu kết nối mọi người và trí tuệ mang dân tộc này đi xa. Hãy dẹp bỏ lòng hận thù, hãy chấp nhận quá khứ.

Cả bên thắng cuộc lẫn bên không thắng hãy ngồi lại với nhau mà thắp hương cầu nguyện cho đồng bào của mình, những người đã ngã xuống, thân của họ đã trộn với đất, máu của họ hòa vào những mạch nước ngầm. Để hôm nay, chúng ta còn được sống, đất nước vẫn còn có một cái tên:Việt Nam.

Nguyễn Vĩnh.  Sài Gòn những ngày tháng Tư.

Độc giả Nguyễn Vĩnh