"Quốc gia khởi nghiệp", quyển sách "hớp hồn" CEO Đặng Lê Nguyên Vũ

06/07/2013 06:35
P.V (trích từ sách Quốc gia khởi nghiệp)
(GDVN) - Để hiểu rõ hơn vì sao quyển sách “Quốc gia khởi nghiệp” có thể “hớp hồn” vị CEO đứng đầu Tập đoàn cà phê Việt nổi tiếng này,  báo Giáo dục Việt Nam xin trích đăng nguyên văn 3 chương (6,7 và 11) trong quyển sách này đến đông đảo độc giả:
LTS: Vào lúc 9h, ngày 5/6/2013, tại khách sạn Movenpick - 83 Lý Thường Kiệt (Hoàn Kiếm, Hà Nội), cùng với Đại sứ Israel tại Việt Nam - bà Meirav Eilon Shahar, Chủ tịch Trung Nguyên Đặng Lê Nguyên Vũ đã chính thức giới thiệu cuốn sách "Quốc Gia Khởi Nghiệp", phiên bản tiếng Việt của cuốn "Start-up Nation" với đông đảo bạn đọc nhằm giúp người Việt giải mã hiện tượng Israel thông qua nhiều câu chuyện kỳ thú làm toát lên phẩm chất vượt trội của con người và đất nước Israel, từ đó khởi động tâm thế và tinh thần kiến quốc khởi nghiệp của người dân Việt Nam, đặc biệt là thế hệ trẻ.

“Bạn hãy đọc sách và mài chí để hành động cho một Việt Nam Hùng Mạnh, Ảnh Hưởng và Trường Tồn, trước mọi mối đe dọa-thiên tạo lẫn nhân tạo. Người Khác Làm Được Thì Ta Làm Được. Nước Khác Làm Được Thì Nước Ta Làm Được. Ta nhất định làm được. Tôi nguyện sát cánh bên bạn”,
ông Đặng Lê Nguyên Vũ chia sẻ.

Để hiểu rõ hơn vì sao quyển sách “Quốc gia khởi nghiệp” có thể “hớp hồn” vị CEO đứng đầu Tập đoàn cà phê Việt nổi tiếng này,  báo Giáo dục Việt Nam xin trích đăng nguyên văn 3 chương (6,7 và 11) trong quyển sách này đến đông đảo độc giả
:

CHƯƠNG 6: MỘT CHÍNH SÁCH CÔNG NGHIỆP HIỆU QUẢ "Thật không đơn giản khi phải thuyết phục mọi người rằng nuôi cá trên sa mạc là việc làm có ý nghĩa",  GIÁO SƯ SAMUEL APPELBAUM. Câu chuyện về phương thức giúp Israel đạt được thành tựu như hiện nay – tăng trưởng kinh tế 50 lần trong vòng 60 năm – không chỉ xoay quanh nét lập dị trong văn hóa của người Israel, bản lĩnh kinh doanh được tôi luyện trên chiến trường hay yếu tố ngẫu nhiên mang tính địa chính trị. Trong câu chuyện này phải tính đến hiệu quả của các chính sách do chính phủ ban hành, có khả năng thích nghi tương tự như quân sự và dân sự của Israel, và cũng trải qua nhiều bước ngoặt của số phận. Lịch sử của nền kinh tế Israel là một trong hai bước tiến vĩ đại, bị chia cắt bằng một giai đoạn kinh tế đình trệ và lạm phát tăng cao. Những chính sách kinh tế vĩ mô của chính phủ đã đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tốc độ tăng trưởng của đất nước rồi đảo ngược nó và giải phóng nó theo những cách mà ngay cả chính phủ cũng không bao giờ mong đợi. Bước tiến vĩ đại đầu tiên diễn ra từ năm 1948 đến 1970, giai đoạn thu nhập bình quân đầu người tăng gần gấp bốn lần và dân số Israel tăng gấp ba lần, thậm chí giữa giai đoạn Israel đang tham gia ba cuộc chiến lớn.
Quốc gia khởi nghiệp” là câu chuyện viết về sự phát triển thần kỳ của nền kinh tế Israel từ lúc lập quốc cho đến khi trở thành quốc gia có nền công nghệ hàng đầu thế giới....
Quốc gia khởi nghiệp” là câu chuyện viết về sự phát triển thần kỳ của nền kinh tế Israel từ lúc lập quốc cho đến khi trở thành quốc gia có nền công nghệ hàng đầu thế giới....
Lần thứ hai là từ năm 1990 đến nay, giai đoạn Israel chuyển mình từ một vùng ao tù nước đọng trở thành trung tâm hàng đầu của các chương trình sáng tạo toàn cầu. Người ta đã áp dụng những biện pháp hoàn toàn khác biệt – gần như đối lập: Giai đoạn đầu tiên của việc mở rộng được thực hiện thông qua một chính phủ khởi nghiệp mà thống trị khối doanh nghiệp tư nhân nhỏ bé và thô sơ; giai đoạn thứ hai là thông qua khối doanh nghiệp tư nhân kinh doanh phát đạt mà ban đầu được xúc tác bằng những hành động của chính phủ.
Gốc rễ của giai đoạn tăng trưởng kinh tế đầu tiên đã xuất hiện từ trước ngày lập quốc vào cuối thế kỷ 19. Ví dụ, trong những năm 1880, một nhóm khai hoang người Do Thái đã cố gắng xây dựng cộng đồng nông nghiệp tại một thị trấn mới thành lập – Petach Tikva – cách Tel Aviv ngày nay vài dặm. Đầu tiên nhóm người tiên phong này sống trong những căn lều tạm, sau đó đã thuê dân Ả-rập địa phương xây những căn chòi vách đất cho họ. Nhưng khi trời mưa, căn chòi này bị dột còn tệ hơn cả lều; còn khi nước sông tràn bờ, các kết cấu này bị nhão ra. Vài người trong nhóm bị kiết lỵ và sốt rét. Rồi chỉ sau vài mùa đông, tiền tiết kiệm của nhóm nông dân đã cạn kiệt, lối mòn dẫn ra đường cái bị xói lở, và gia đình họ gần như chết đói. Tuy nhiên, vào năm 1883, mọi việc bắt đầu sáng sủa hơn. Nhà từ thiện kiêm chủ ngân hàng người Pháp gốc Do Thái Edmond de Rothschild đã cấp cho họ khoản hỗ trợ tài chính cần thiết. Một chuyên gia nông nghiệp khuyên nhóm người khai hoang trồng cây khuynh diệp ở những đầm lầy do nước lũ tràn vào, các rễ cây sẽ hút nước trong đầm lầy. Tỉ lệ mắc bệnh sốt rét giảm rõ rệt, và ngày càng nhiều gia đình chuyển đến sống với cộng đồng đang phát triển này. Bắt đầu từ những năm 1920 và trong suốt thập kỷ đó, năng suất lao động ở Yishuv – cộng đồng Do Thái tiền nhà nước Palestine – đã tăng 80%, tạo ra lượng sản phẩm quốc gia nhiều gấp bốn lần cùng dân số Do Thái tăng gấp đôi. Ấn tượng hơn, trong suốt cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới từ năm 1931 đến 1935, tăng trưởng kinh tế trung bình hằng năm của người Do Thái và Ả-rập ở Palestine lần lượt là 28% và 14%. Những cộng đồng nhỏ do những người khai hoang lập ra, như Petach Tikva, không bao giờ có thể tự mình đạt được sự tăng trưởng bùng nổ đó. Họ được bổ sung bằng làn sóng dân nhập cư mới, những người không chỉ đóng góp về mặt số lượng, mà còn mang theo những đặc tính tiên phong đã lật đổ nền kinh tế dựa trên lòng thiện nguyện. Một trong số những người nhập cư đó là luật sư 20 tuổi David Gruen, đến từ Ba Lan vào năm 1906. Khi đến nơi, anh đổi sang tên Do Thái là Ben-Gurion – tên một vị tướng Do Thái từ thời đế chế La Mã, vào năm 70 sau Công Nguyên – và nhanh chóng nổi lên để trở thành lãnh đạo không thể chối bỏ của cộng đồng Yishuv. Tác giả người Israel Amos Oz đã viết: “Trong những năm đầu của nhà nước mới, nhiều người Israel xem ông như sự kết hợp của Moses, George Washington, Garibaldi và Chúa Toàn Năng”. Ben-Gurion còn là doanh nhân quốc gia đầu tiên của Israel. Theodore Herzl có thể đã khái niệm hóa tầm nhìn cho chủ quyền của người Do Thái và bắt đầu khích động cộng đồng Do Thái tha hương bằng khái niệm lãng mạn của một nhà nước chủ quyền; song chính Ben-Gurion mới là người tổ chức tầm nhìn này từ một ý tưởng để trở thành một nhà nước – dân tộc có năng lực vận hành. Sau Thế chiến II, Winston Churchill gọi Đại tướng Mỹ George Marshall là “người tổ chức sự thắng lợi” của lực lượng Đồng Minh. Diễn giải theo cách nói của Churchill, Ben-Gurion là “người tổ chức chủ nghĩa Phục quốc Do Thái”; hoặc theo thuật ngữ kinh doanh, Ben-Gurion là một “người vận hành”, người đã thật sự xây dựng đất nước Israel. Thách thức Ben-Gurion phải đối mặt trong lĩnh vực quản lý vận hành và lên kế hoạch hậu cần là vô cùng phức tạp. Xem xét chỉ riêng một vấn đề: Làm thế nào để tiếp nhận làn sóng dân nhập cư. Từ những năm 1930 cho đến khi kết thúc nạn thảm sát người Do Thái (Holocaust), hàng triệu người châu Âu gốc Do Thái bị chuyển đến các trại tập trung, một số đã tìm cách đào tẩu đến Palestine. Tuy nhiên, những người trốn thoát lại bị nhiều nước từ chối cho tị nạn và buộc phải sống chui lủi, thường là trong những điều kiện khủng khiếp.
Start-up Nation nhằm giúp người Việt giải mã hiện tượng Israel thông qua nhiều câu chuyện kỳ thú làm toát lên phẩm chất vượt trội của con người và đất nước Israel, từ đó khởi động tâm thế và tinh thần kiến quốc khởi nghiệp của người dân Việt Nam, đặc biệt là thế hệ trẻ.
Start-up Nation nhằm giúp người Việt giải mã hiện tượng Israel thông qua nhiều câu chuyện kỳ thú làm toát lên phẩm chất vượt trội của con người và đất nước Israel, từ đó khởi động tâm thế và tinh thần kiến quốc khởi nghiệp của người dân Việt Nam, đặc biệt là thế hệ trẻ.
Sau năm 1939, chính phủ Anh khi đó, vốn là siêu cường thuộc địa phụ trách Palestine, đã ban hành lệnh cấm hà khắc lên làn sóng nhập cư với một chính sách được biết đến với tên gọi “Bạch Thư” (White Paper). Nhà cầm quyền Anh từ chối hầu hết những người muốn tị nạn tại Palestine. Đáp lại, Ben-Gurion phát động hai chiến dịch tưởng chừng trái ngược nhau. Đầu tiên, ông thuyết phục và thu xếp cho khoảng 18 nghìn người Do Thái đang sống ở Palestine quay về châu Âu để gia nhập quân đội Anh trong “Tiểu đoàn Do Thái” chống Đức Quốc xã. Cùng lúc đó, ông tạo ra một cơ quan ngầm để bí mật vận chuyển người tị nạn Do Thái từ châu Âu sang Palestine, thách thức chính sách nhập cư của Anh. Ben-Gurion, một mặt cùng chiến tuyến với người Anh ở châu Âu; mặt khác chống lại người Anh ở Palestine. Hầu hết lịch sử của kỷ nguyên này tập trung vào những cuộc tranh đấu quân sự và chính trị để dẫn đến sự ra đời của nhà nước Israel vào năm 1948. Trong suốt quá trình đó, đã nổi lên một huyền thoại xung quanh khía cạnh kinh tế trong câu chuyện này: Ben-Gurion là một người theo chủ nghĩa xã hội và Israel được sinh ra dưới hình hài một nhà nước xã hội chủ nghĩa triệt để. Nguyên nhân của huyền thoại này rất dễ hiểu. Ben- Gurion bị đắm chìm trong môi trường chủ nghĩa xã hội của kỷ nguyên đó, và chịu ảnh hưởng sâu sắc sự trỗi dậy của chủ nghĩa Mác và cuộc Cách mạng Nga năm 1917. Rất nhiều người Do Thái trong thời kỳ tiền nhà nước Palestine đến từ Liên bang Xô Viết và Đông Âu là những người theo chủ nghĩa xã hội, và họ đều chịu ảnh hưởng nặng nề của chủ nghĩa này. Nhưng Ben-Gurion tập trung một cách khác thường vào việc xây dựng nhà nước, bằng mọi phương tiện. Ông không đủ kiên nhẫn để thí nghiệm những chính sách mà ông tin rằng được tạo ra đơn giản chỉ để công nhận giá trị hệ tư tưởng Mác xít. Trong quan điểm của ông, mọi chính sách – kinh tế, chính trị, quân sự hoặc định cư là cách duy nhất để đảm bảo chủ quyền tương lai của Israel. Nếu không, những khu vực không có hoặc ít người định cư sẽ có ngày bị kẻ thù đoạt mất, những kẻ sẽ dễ dàng thuyết phục cộng đồng quốc tế nếu người Do Thái không có mặt tại những khu vực tranh chấp. Hơn nữa, sự tập trung dày đặc ở các đô thị – trong các thành phố và thị trấn như Jerusalem, Tiberias và Safed sẽ biến những nơi này thành mục tiêu rõ ràng cho lực lượng không quân thù địch, đây cũng là một lý do khác để phân tán dân số rộng rãi. Ben-Gurion cũng hiểu mọi người sẽ không chịu chuyển đến các khu vực kém phát triển, cách quá xa trung tâm thành thị và cơ sở hạ tầng cơ bản nếu chính phủ không đi đầu trong việc giải quyết và khuyến khích tái định cư. Ông biết nhiều nhà tư bản tư nhân sẽ không muốn phải chịu rủi ro cho những nỗ lực như vậy. Song sự tập trung cao độ vào công cuộc phát triển này cũng tạo ra di sản là một chính phủ không chính thức can thiệp vào nền kinh tế. Sự chuyên chế của Pinchas Sapir rất tiêu biểu. Trong suốt những năm 1960 và 1970, Sapir giữ nhiều trọng trách như Bộ trưởng Tài chính hay Bộ trưởng Thương mại và Công nghiệp. Phong cách quản lý của Sapir vi mô đến mức ông đã thiết lập những tỉ giá ngoại tệ khác nhau cho từng nhà máy khác nhau – với tên gọi “phương pháp xã hội – đều phải phục vụ cho mục tiêu xây dựng quốc gia. Ben-Gurion là một hình mẫu bitzu’ist cổ điển, đây là một từ trong tiếng Hebrew có nghĩa gần với “người theo chủ nghĩa thực dụng”, nhưng có thêm nhiều phẩm chất của một nhà hoạt động. Bitzu’ist là người làm việc tới nơi tới chốn. Chủ nghĩa bitzu’ là trung tâm của những đặc tính tiên phong và là động lực của tinh thần khởi nghiệp Israel. “Gọi một người là bitzu’ist tức là khen ngợi người đó một cách sâu sắc”, tác gia kiêm biên tập viên Leon Wieseltier viết. “Bitzu’ist là người xây dựng, người tưới ruộng, phi công, kẻ buôn lậu súng và là người khai hoang. Người Israel công nhận loại hình xã hội: Cộc cằn, tháo vát, nôn nóng, mỉa mai, hiệu quả, không cần nghĩ nhiều mà cũng không cần ngủ nhiều”. Tuy Wieseltier đang miêu tả một thế hệ người tiên phong, song từ ngữ của ông cũng phù hợp để nói về bất cứ ai dám mạo hiểm mọi thứ để thành lập những công ty “khởi nghiệp”. Chủ nghĩa Bitzu’ là chủ đề đi từ những con người dám đối mặt với kẻ cướp và tát cạn đầm lầy cho đến những doanh nhân tin rằng họ có thể bất chấp những điều kỳ quặc và nòng súng để biến ước mơ thành hiện thực. Đối với Ben-Gurion, nhiệm vụ chủ yếu là làm sao để dàn trải người dân trên mảnh đất sau này sẽ trở thành Israel. Những nhà sử học đã gọi nông trang là “hoạt động công xã thành công nhất thế giới”. Tuy nhiên vào năm 1944, bốn năm trước thời điểm lập quốc của Israel, chỉ có 16 nghìn người sống trong các kibbutzim (kibbutz nghĩa là “tập hợp” hoặc “hợp tác”, kibbutzim là số nhiều, còn những thành viên gọi là kibbutznik).
Kibbutzim được tạo ra như các khu định cư nông nghiệp nhằm xóa bỏ sự tư hữu và đem lại bình đẳng cho toàn dân, phong trào đã phát triển trong suốt 20 năm tiếp theo, lên thành 80 nghìn người sống trong 250 cộng đồng, song con số này vẫn chỉ chiếm 4% dân số Israel.
Kibbutzim được tạo ra như các khu định cư nông nghiệp nhằm xóa bỏ sự tư hữu và đem lại bình đẳng cho toàn dân, phong trào đã phát triển trong suốt 20 năm tiếp theo, lên thành 80 nghìn người sống trong 250 cộng đồng, song con số này vẫn chỉ chiếm 4% dân số Israel.
Được tạo ra như các khu định cư nông nghiệp nhằm xóa bỏ sự tư hữu và đem lại bình đẳng cho toàn dân, phong trào đã phát triển trong suốt 20 năm tiếp theo, lên thành 80 nghìn người sống trong 250 cộng đồng, song con số này vẫn chỉ chiếm 4% dân số Israel. Tuy nhiên ngày nay, các nông trang đã đóng góp 15% thành viên của Knesset, tên gọi dành cho Quốc hội Israel, và một con số còn lớn hơn thế cho lực lượng sĩ quan và phi công của quân đội Israel. Một phần tư trong số 800 lính Israel hy sinh trong Cuộc chiến Sáu ngày năm 1967 là các kibbutznik – khoảng sáu lần trong dân số chung. Mặc dù viễn cảnh về một công xã chủ nghĩa xã hội có thể mang hình ảnh của một thứ văn hóa du mục, nhưng điều này không đúng với nông trang lúc ban đầu. Những nông trang viên bắt đầu biểu tượng hóa sự chịu đựng gian khổ và loại bỏ tính lễ nghi, sự theo đuổi bình đẳng triệt để của họ đã sản sinh ra chủ nghĩa khổ hạnh. Ví dụ tiêu biểu là Abraham Herzfield, một lãnh đạo phong trào nông trang trong những năm đầu tiên của nhà nước Israel, người cho rằng việc xả nước nhà 100 tỉ giá hối đoái” – và theo dõi tất cả tỉ giá này bằng cách ghi vào một quyển số nhỏ màu đen. Theo Moshe Sanbar, Thống đốc thứ hai của Ngân hàng Israel, Sapir nổi danh với hai cuốn sổ. “Một trong hai cuốn sổ là Cục Thống kê trung ương của riêng ông: Sapir yêu cầu mọi nhà máy lớn phải báo cáo lại họ đã bán được bao nhiêu, bán cho ai, đã tiêu thụ bao nhiêu điện… Và đây là cách ông ta nắm rõ, trước khi những số liệu thống kê chính thức được lưu lại, nền kinh tế đang diễn ra như thế nào". Sanbar cũng tin rằng hệ thống này chỉ hiệu quả trong một quốc gia lý tưởng, luôn cố gắng phấn đấu và có diện tích nhỏ: Không có chính phủ minh bạch, nhưng “một chính trị gia lúc bấy giờ qua đời trong cảnh nghèo khó… Họ can thiệp vào thị trường, quyết định bất cứ điều gì họ muốn, nhưng không lấy trong túi ai dù chỉ một xu”[6], Sanbar cho biết...* Còn nữa... Nội dung tiếp theo của chương 6: NÔNG TRANG (KIBBUTZ) VÀ CUỘC CÁCH MẠNG NÔNG NGHIỆP
P.V (trích từ sách Quốc gia khởi nghiệp)