Ở Việt Nam, ai cũng được học hành

15/02/2019 07:00
Theo Quân đội nhân dân
(GDVN) - Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhiều lần khẳng định, giáo dục là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển kinh tế-xã hội.

Một trong những chỉ số quan trọng để minh chứng việc bảo đảm quyền con người ở các quốc gia có được thực thi và đi vào cuộc sống hay không là việc tạo điều kiện, cơ hội thuận lợi cho mọi người dân được quyền học hành, nâng cao trình độ, đặc biệt là người dân tộc thiểu số, người yếu thế trong xã hội.

Những năm qua, Việt Nam đã có nhiều chính sách, giải pháp thiết thực, phù hợp để tăng cường bảo đảm các điều kiện học tập và không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực vùng dân tộc thiểu số.

Những chuyển biến tích cực trong công tác giáo dục dân tộc thiểu số ở Việt Nam không những góp phần bảo đảm quyền văn hóa cho mọi người dân, mà còn là minh chứng sinh động nhằm phản bác các luận điệu sai trái của các thế lực thù địch xuyên tạc, phủ nhận những thành tựu giáo dục của nước ta, trong đó có thành tựu nổi bật của công tác giáo dục dân tộc thiểu số. 

Hiện thực hóa khát vọng “ai cũng được học hành” của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Việt Nam là quốc gia đa dân tộc, trong đó có 53 dân tộc thiểu số, với 13,4 triệu người, chiếm 14,6% dân số cả nước.

Đa số người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ và Tây duyên hải miền Trung, chiếm 3/4 diện tích của cả nước.

Đây là những nơi núi cao, địa hình chia cắt, giao thông đi lại khó khăn, nhưng đồng thời cũng là địa bàn có vị trí chiến lược, xung yếu về quốc phòng, an ninh và môi trường sinh thái.

Dưới chế độ thực dân, phong kiến trước đây, hầu hết người dân tộc thiểu số ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa quanh năm suốt tháng chỉ biết quẩn quanh nơi rừng sâu núi thẳm, sống tự cấp tự túc, không được đến trường, đến lớp nên rơi vào cảnh mù chữ, ít có kiến thức, hiểu biết về mọi mặt của đời sống xã hội.

Ở Việt Nam, ai cũng được học hành ảnh 1Giáo sư Trần Hồng Quân: Giáo dục là ngôi đền thiêng để mọi người gửi niềm tin

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công không chỉ là bước ngoặt vĩ đại đưa dân tộc Việt Nam bước sang trang sử mới, mà cũng là thời điểm giúp đồng bào các dân tộc thiểu số từng bước được tiếp cận với ánh sáng tri thức văn hóa của dân tộc và nhân loại.

Khi trả lời các nhà báo nước ngoài dịp đầu năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”.

“Ham muốn tột bậc” của Bác Hồ cũng là mục tiêu cao cả, khát vọng cháy bỏng của Đảng, Nhà nước Việt Nam hơn bảy thập niên qua, đó là làm cho mọi người dân, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số “ai cũng được học hành”.

Từ khi lập Đảng, lập quốc đến nay, trong các văn kiện đại hội của Đảng và các bản Hiến pháp, bao giờ Đảng, Nhà nước Việt Nam cũng đề cập đến việc tạo cơ hội bình đẳng, điều kiện thuận lợi cho nhân dân nói chung, các dân tộc thiểu số nói riêng được quyền tiếp cận, hưởng thụ môi trường, dịch vụ giáo dục cơ bản để không ngừng nâng cao kiến thức, trình độ, góp phần bảo đảm chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Trên cơ sở quán triệt nguyên tắc về chính sách dân tộc “Bình đẳng, tôn trọng, đoàn kết, giải quyết hài hòa quan hệ giữa các dân tộc và giúp nhau cùng phát triển”, những năm qua, cùng với đẩy mạnh phát triển kinh tế-xã hội, xóa đói giảm nghèo, thực hiện an sinh xã hội, cấp ủy, chính quyền các địa phương đã chú trọng chăm lo công tác giáo dục ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Xuất phát từ đặc điểm lịch sử dân tộc và điều kiện địa lý, địa hình ở các nơi không giống nhau, Việt Nam đã thành lập nhiều mô hình trường học đáp ứng nhu cầu học tập cho người dân tộc thiểu số, như: Trường thanh niên dân tộc, trường vừa học vừa làm, trường thiếu sinh quân, trường phổ thông dân tộc nội trú và bán trú, trường dự bị đại học dân tộc…

Những mô hình này đã được đại diện UNESCO ghi nhận là một trong những nỗ lực, sáng tạo của Việt Nam nhằm tạo cơ hội cho mọi người dân tộc thiểu số được đến trường đến lớp, góp phần xóa nạn mù chữ, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.

Trường phổ thông vùng cao Việt Bắc nơi đào tạo nguồn cán bộ là người dân tộc thiểu số. Ảnh minh họa. Nguồn: qdnd.vn
Trường phổ thông vùng cao Việt Bắc nơi đào tạo nguồn cán bộ là người dân tộc thiểu số. Ảnh minh họa. Nguồn: qdnd.vn

Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhiều lần khẳng định, giáo dục là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển kinh tế-xã hội.

Việc quan tâm chăm lo sự nghiệp giáo dục, nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực cho đồng bào dân tộc thiểu số ở biên giới, miền núi không chỉ là trách nhiệm, nghĩa vụ của Đảng, Nhà nước đối với những người dân ở khu vực “phên giậu” Tổ quốc, mà còn là vấn đề vừa có ý nghĩa chiến lược, vừa là nhiệm vụ thường xuyên để góp phần củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc và nâng cao sức mạnh nội sinh cho đất nước.

Chú trọng chăm lo nguồn đào tạo nhân lực là người dân tộc thiểu số

Mọi chủ trương, chính sách chỉ có ý nghĩa khi đi vào thực tiễn và được thực tiễn kiểm chứng.

Thành công của công tác giáo dục dân tộc thiểu số ở Việt Nam được thể hiện sinh động qua những “con số biết nói”.

Hiện nay, 100% xã vùng dân tộc thiểu số và miền núi có trường trung học cơ sở, tiểu học và hầu hết các xã có trường, điểm trường và lớp học mầm non; cả nước có 315 trường phổ thông dân tộc nội trú ở 49 tỉnh, thành phố với tổng số 109.245 học sinh nội trú.

Trong đó, số trường phổ thông dân tộc nội trú đạt chuẩn quốc gia chiếm khoảng 40%. Ngoài ra còn 975 trường phổ thông dân tộc bán trú, 5 trường đào tạo dự bị đại học dân tộc.

Theo ông Đỗ Văn Chiến, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc, những năm qua, việc đầu tư phát triển giáo dục, đào tạo ở vùng dân tộc thiểu số, miền núi được Đảng, Nhà nước và các địa phương xác định là một trong những ưu tiên trong chiến lược phát triển kinh tế-xã hội.

Đến nay, đã có 51/53 dân tộc thiểu số có học sinh cử tuyển đi học đại học, học sinh là người dân tộc thiểu số ở vùng đặc biệt khó khăn được Nhà nước hỗ trợ chi phí ăn, ở, học.

Mạng lưới trường, lớp giáo dục mầm non, trường phổ thông ở vùng dân tộc thiểu số, miền núi tiếp tục được củng cố, mở rộng.

Trong đó mô hình trường phổ thông dân tộc nội trú đã góp phần to lớn trong tạo nguồn đào tạo cán bộ, bồi dưỡng và phát triển nguồn nhân lực có chất lượng ở vùng dân tộc thiểu số, miền núi, vùng có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn trong suốt thời gian qua.

Ở Việt Nam, ai cũng được học hành ảnh 3Chuyện bé xé ra to, gắn vấn đề giáo dục với mưu đồ chính trị

Một trong những việc làm thiết thực thể hiện sự quan tâm đối với giáo dục dân tộc thiểu số là nhiều địa phương đã đẩy mạnh triển khai việc dạy tiếng dân tộc thiểu số cho học sinh bản địa.

Hiện tại 23 tỉnh, thành phố có đông đồng bào dân tộc thiểu số đang triển khai dạy và học 8 thứ tiếng dân tộc thiểu số, gồm: Tiếng Mông, Chăm, Khmer, Gia Rai, Ba Na, Ê Đê, Mơ Nông, Thái.

Đây là minh chứng rõ nét trong việc góp phần bảo đảm quyền văn hóa cho các dân tộc thiểu số theo đúng tinh thần Hiến pháp 2013 đã hiến định:

“Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình”.

Nhờ chú trọng chăm lo, vun đắp sự nghiệp “trồng người” ở vùng dân tộc thiểu số, hiện nay tỷ lệ người dân tộc thiểu số biết chữ độ tuổi 15-60 đạt 93,44%.

Cả nước có hơn 13.000 người dân tộc thiểu số có trình độ trên đại học, đại học, cao đẳng; hơn 78.000 người có trình độ trung học chuyên nghiệp.

Vì vậy, tỷ lệ cán bộ lãnh đạo các cấp là người dân tộc thiểu số trong hệ thống chính trị ngày càng tăng cao.

Điển hình là trong 4 nhiệm kỳ Quốc hội liên tiếp gần đây, tỷ lệ đại biểu Quốc hội là người dân tộc thiểu số chiếm từ 15,6% đến 17,3%, cao hơn tỷ lệ người dân tộc thiểu số trên tổng số dân là 14,6%.

Một trong những những nhân tố tiêu biểu được dư luận biết đến là chị Triệu Thị Huyền, dân tộc Dao ở thôn Khe Phưa, xã Minh An, huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái.

Sau khi tốt nghiệp đại học sư phạm, chị Huyền được đề cử và trúng cử đại biểu Quốc hội khóa XIV khi mới 24 tuổi và là đại biểu trẻ nhất của Quốc hội nhiệm kỳ 2016-2021.

Ngoài việc chăm lo, hỗ trợ học sinh đi lại, ăn ở để học hành ngày càng tốt hơn, Nhà nước Việt Nam đã có những chính sách hỗ trợ thiết thực góp phần nâng cao đời sống văn hóa tinh thần cho các em.

Trong số 19 ấn phẩm báo, tạp chí vừa được Thủ tướng Chính phủ quyết định cấp cho vùng dân tộc thiểu số và miền núi, vùng đặc biệt khó khăn giai đoạn 2019-2021 có hai ấn phẩm dành riêng cho học sinh các dân tộc thiểu số.

Đó là Chuyên đề “Măng non” của Báo Nhi đồng cấp cho trường tiểu học các xã vùng dân tộc thiểu số và miền núi; Chuyên đề “Thiếu nhi Dân tộc” của Báo Thiếu niên Tiền phong cấp cho trường trung học cơ sở các xã vùng dân tộc thiểu số và miền núi, trường dân tộc nội trú, dân tộc bán trú cụm xã vùng dân tộc thiểu số và miền núi.

Những tờ báo này được ví như cánh tay nối dài giữa Đảng, Nhà nước với những chủ nhân tương lai của đất nước ở vùng dân tộc thiểu số, miền núi; đồng thời góp phần cung cấp thông tin, truyền bá tri thức, hướng dẫn học sinh các dân tộc thiểu số thực hiện nếp sống văn minh, khoa học.

Những chuyển biến tiến bộ trong sự nghiệp giáo dục Việt Nam nói chung, công tác giáo dục dân tộc thiểu số nói riêng đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận.

Trong lần thứ ba trở lại thăm Việt Nam vào tháng 8/2017, bà Irina Bokova, Tổng giám đốc UNESCO, đã khẳng định:

Tôi thấy Việt Nam có nhiều thay đổi, nhất là sự phát triển tích cực về kinh tế cũng như chất lượng giáo dục, trong đó có thành tựu về thúc đẩy sự công bằng, bình đẳng về giáo dục”.

Theo Quân đội nhân dân