GS Ngô Đức Thịnh: Người Việt từng rất mạnh vì “biết mình, biết người”

14/10/2013 07:21
Hoàng Lực
(GDVN) - Theo GS Ngô Đức Thịnh - nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Văn hóa Việt Nam, trong quá khứ Việt Nam từng giành chiến thắng trong các cuộc chiến tranh chống ngoại xâm vì chúng ta “biết mình – biết người”, hiểu mình mạnh và yếu gì để phát huy, khắc phục.
Điều gì làm nên sự hùng cường một dân tộc, đó là văn hóa, bản sắc riêng không lẫn vào đâu được. Đứng trước ngưỡng cửa tiến ra thế giới sức mạnh văn hóa dân tộc sẽ đưa con tàu Việt Nam tiến biển lớn nhờ cái “mỏ neo” văn hóa bền vững được xây dựng từ hơn 4.000 năm qua. Chính nhờ cái “mỏ neo” văn hóa, dân tộc Việt Nam đã trải qua bao thăng trầm lịch sử lần lượt chiến thắng những kẻ thù xâm lược sừng sỏ nhất.
Mất văn hóa nghĩa là mất tất cả
GS Ngô Đức Thịnh cho rằng: Sự quật cường của dân tộc Việt Nam trong quá trình chống giặc ngoại xâm được vun đúc ngay từ sớm khi dân tộc Việt Nam đã phải trải qua những cuộc chiến tranh chống ngoại xâm. Kể từ thời Hùng Vương, Việt Nam luôn đứng trước mối họa này, do vậy ngay từ ban đầu trong mỗi người Việt Nam hình thành chủ nghĩa yêu nước và tinh thần chống ngoại xâm. “Tôi cho rằng có hai hình tượng rất đắt để nói về tinh thần quật cường chống giặc ngoại xâm trong văn hóa Việt Nam đó là Thánh Gióng và Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng. Nhưng sau hết cái mà muốn nhấn mạnh ở đây là biết mình biết người”, GS Ngô Đức Thịnh cho biết.
“Mất văn hóa nghĩa là mất tất cả, mất văn hóa mất bản sắc sẽ không phân biệt giữa ta và địch…”, GS Ngô Đức Thịnh nhận định.
“Mất văn hóa nghĩa là mất tất cả, mất văn hóa mất bản sắc sẽ không phân biệt giữa ta và địch…”, GS Ngô Đức Thịnh nhận định.
Theo GS Ngô Đức Thịnh, trong quá khứ Việt Nam từng giành chiến thắng trong các cuộc chiến tranh chống ngoại xâm vì chúng ta “biết mình – biết người”, hiểu mình mạnh và yếu gì để phát huy, khắc phục. Hơn nữa trong chiến tranh chống giặc ngoại xâm Việt Nam luôn ở thế kẻ yếu, “lấy yếu chống mạnh”, “lấy nhu thắng cương” đã trở thành sách lược chung để chống ngoại xâm.
Văn hóa có vai trò cực kỳ quan trọng làm nên sức mạnh của dân tộc “như người ta vẫn nói mất nước đó là điều tai họa nhưng mất văn hóa còn tai họa hơn, mất nước nhưng bằng sự quyết tâm, kiên trì thì một nghìn năm sau chúng ta vẫn giành lại được nhưng mất văn hóa nghĩa là mất tất cả, mất văn hóa mất bản sắc sẽ không phân biệt giữa ta và và kẻ xâm lược, giữa dân tộc này với dân tộc kia”, GS Ngô Đức Thịnh nói. Xâu chuỗi đến ngày nay, bên cạnh chủ nghĩa yêu nước, tinh thần chống giặc ngoại xâm để xây dựng bảo vệ Việt Nam, đưa Việt Nam trở nên hùng cường, theo GS Ngô Đức Thịnh văn hóa chính là nền tảng ở đó chúng ta phải luôn “biết mình biết ta” biết đánh giá đúng cái hay cái dở của mình để phát triển. Nói đến tinh hoa văn hóa Việt Nam, GS Ngô Đức Thịnh cho rằng: văn hóa còn bao hàm nhiều ý là thái độ của con người với môi trường, thái độ con người với con người. Kết tinh tất cả những cái đó trở thành tinh hoa văn hóa dân tộc. Nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa cởi mở, không đóng kín. Vì tinh hoa văn hóa Việt Nam nằm chính trong con người Việt Nam đó là tinh thần học hỏi và ứng dụng. “Người Việt Nam ham học hỏi nhưng học để ứng dụng. Ngay từ trong lịch sử, để chống ngoại xâm chúng ta phải học kẻ thù để tăng cường sức mạnh cho mình. Phải nói rằng người Việt Nam có năng lực rất lớn trong việc tiếp thu và sáng tạo để ứng dụng vào thực tế – GS Ngô Đức Thịnh nhấn mạnh. Tuy nhiên, trong quá trình tiếp thu học hỏi cái mới người Việt Nam cũng bộc lộ hạn chế như chưa học đến nơi đến chốn, áp dụng tùy tiện… “Người Việt Nam không có năng lực sáng tạo ra cái gì đó thật lớn hoặc có những rất ít, điều đó không phải để nói tổ tiên chúng ta kém mà vì hoàn cảnh lịch sử. Ngay từ khi chúng ta bước ra khỏi thời kỳ nguyên thủy thì bên cạnh chúng ta đã có những nền văn hóa đồ sộ là Trung Hoa và Ấn Độ. Vì vậy không thể bắt tổ tiên ta sáng tạo ra điều gì khác họ mà phải học cái của họ biến thành cái của ta”, GS Thịnh phân tích.
Lối sống duy tình khiến nhiều người Việt “hoài nhớ quá khứ”
GS Thịnh nhìn nhận, nét văn hóa “thương người như thể thương thân”, sống thiên về tình cảm cũng là nét đẹp văn hóa Việt Nam. Trong quá khứ có thể “một sống một chết” với kẻ thù nhưng sau đó người Việt Nam vẫn sẵn sàng bắt tay xây dựng hòa bình với kẻ thù, đó là nét đẹp riêng chỉ có ở văn hóa Việt Nam mà không phải đất nước nào cũng có được. Nhưng bất cứ điều gì cũng có hai mặt của nó. Lối sống duy tình, văn hóa cảm xúc khiến nhiều người không nhìn thẳng vào sự thật mà hoài nhớ quá khứ. “Tư tưởng “chín bỏ làm mười” có nhiều cái dở trong xã hội hiện đại vì vậy bên cạnh phát huy yếu tố chữ tình trong cuộc sống với nhau nhưng phải trên cơ sở pháp luật, một nền văn hóa duy lý hay duy tình đều có mặt mạnh và mặt yếu nhất định vấn đề là chúng ta nhận thức được nó, phát huy được nó trong hoàn cảnh nhất định”, GS Ngô Đức Thịnh cho biết thêm. Vốn quý nhất của dân tộc Việt Nam đó là nền văn hóa nhưng nói đến việc “giữ gìn bảo tồn văn hóa dân tộc”, hiện nay chúng ta mới chỉ quan tâm khôi phục, bảo tồn giá trị văn hóa vật thể là chủ yếu. Theo GS Thịnh, trong kho tàng giá trị văn hóa Việt Nam chia ra giá trị vật thể và phi vật thể. Giá trị văn hóa vật thể như đình, chùa, miếu, mạo cảnh quan tự nhiên là những thứ nhìn thấy được nhưng lâu nay việc bảo tồn khôi phục vẫn chưa tìm ra được phương sách hay dẫn đến di tích văn hóa bị hư hỏng, người dân xin trả di tích như tại Đường Lâm (Sơn Tây – Hà Nội)… “Trong khi đó các giá trị văn hóa phi vật thể không nên hiểu chỉ là những làn điệu dân ca, những câu hò, bản nhạc mà giá trị văn hóa phi vật thể còn là tinh thần yêu nước, quật cường chống ngoại xâm ẩn chứa trong mỗi con người, hay thái độ sống của con người Việt Nam với nhau, văn hóa ứng xử… tất cả thứ đó nằm trong tâm tưởng, tư tưởng phải ở hoàn cảnh lịch sử cụ thể mới được phát huy. Nhưng hiện nay việc truyền bá, bảo tồn giá trị văn hóa này vẫn bị xem nhẹ” – GS Ngô Đức Thịnh cho biết. Vì vậy theo GS Ngô Đức Thịnh việc bảo tồn văn hóa là phải song song hai giá trị vật thể và phi vật thể, cùng với đó không chỉ là bảo tồn mà phải phát huy nền văn hóa đó.
Hoàng Lực