Xâm lược không thể sinh ra chủ quyền

24/05/2014 07:16
Nguyễn Hường
(GDVN) -Từ góc độ quốc tế, việc chiếm đóng bằng vũ lực lãnh thổ của một quốc gia là hành vi phi pháp và không đem lại chủ quyền cho Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa
Tại cuộc họp báo quốc tế về tình hình Biển Đông chiều ngày 23/5 tại Hà Nội, ông Trần Duy Hải - Phó Chủ nhiệm Ủy ban Biên giới Quốc gia đã công bố nhiều chứng cứ lịch sử và pháp lý khẳng định chủ quyền không thể tranh cãi của Việt Nam với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Phát biểu tại phiên khai mạc, ông Lê Hải Bình - Quyền Vụ trưởng Vụ Thông tin Báo chí, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao cho biết, trong thời gian qua, bất chấp những những nỗ lực tiếp xúc nghiêm túc của Việt Nam ở nhiều cấp và nhiều hình thức, Trung Quốc vẫn không chấm dứt hoạt động vi phạm chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam theo quy định của Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển năm 1992 mà cả Việt Nam và Trung Quốc đều là thành viên.

Ông Lê Hải Bình và ông Ngô Ngọc Thu trả lời các câu hỏi trong cuộc họp báo quốc tế (Ảnh: Phương Thảo)
Ông Lê Hải Bình và ông Ngô Ngọc Thu trả lời các câu hỏi trong cuộc họp báo quốc tế (Ảnh: Phương Thảo)
Việt Nam đã nhiều lần yêu cầu Trung Quốc rút giàn khoan Hải Dương 981 cùng các tàu hộ tống ra khỏi vùng biển của Việt Nam, chấm dứt các hoạt động gây ảnh hưởng tới an toàn, an ninh hàng hải cũng như hòa bình và sự ổn định của khu vực. Tuy nhiên, phía Trung Quốc không những không đáp ứng mà gần đây lại còn đưa ra nhiều thông tin sai lệch về quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với các vùng biển của Việt Nam.
Về vấn đề này, ông Trần Duy Hải - Phó Chủ nhiệm Ủy ban Biên giới quốc gia- khẳng định Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý để khẳng định chủ quyền đối với hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. 
Theo ông, ít nhất là từ thế kỷ 17, Việt Nam đã xác lập và thực thi chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa khi hai quần đảo này còn vô chủ. Các nhà nước phong kiến Việt Nam cũng đã thực thi chủ quyền đó một cách hòa bình, liên tục, phù hợp với luật pháp quốc tế mà không gặp phải sự phản đối từ bất cứ quốc gia nào.
Trong thời kỳ Pháp thuộc, chính phủ Pháp đã nhân danh Việt Nam tiếp tục quản lý quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, đồng thời phản đối các yêu sách của các nước khác đối với hai quần đảo này.
Chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa cũng đã được thừa nhận tại Hội nghị San Francisco tháng 9/1951 - Hội nghị giải quyết vấn đề các vùng lãnh thổ sau Thế chiến II với sự tham dự của 51 quốc gia. 
Tại đây, Trưởng phái đoàn Việt Nam, Thủ tướng chính phủ Bảo Đại Trần Văn Hữu đã khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà không gặp bất cứ sự phản đối nào từ 50 quốc gia tham dự còn lại. 
Trong hội nghị, phái đoàn Liên Xô đã đề xuất trao chủ quyền quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc, nhưng đã bị đa số đại biểu phản đối với tỷ lệ số phiếu là 46 phiếu chống.
Ông Trần Duy Hải - Phó Chủ nhiệm Ủy ban Biên giới quốc gia (giữa) tại cuộc họp báo ngày 23/5. Ảnh Phúc Hưng
Ông Trần Duy Hải - Phó Chủ nhiệm Ủy ban Biên giới quốc gia (giữa) tại cuộc họp báo ngày 23/5. Ảnh Phúc Hưng
Hiệp định Geneva năm 1954 về việc khôi phục hòa bình ở Đông Dương khẳng định các bên tham gia tôn trọng độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Phù hợp với Hiệp định này, sau khi Pháp rút khỏi Việt Nam năm 1956, Việt Nam Cộng hòa đã tiếp quản quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, tuyên bố khẳng định chủ quyền và có các hành vi thực thi chủ quyền đối với hai quần đảo này sau đó. 
Trung Quốc đã tham gia Hội nghị Geneva năm 1954 nên biết rất rõ điều này. Lẽ ra Trung Quốc phải có trách nhiệm tôn trọng các văn kiện quốc tế của Hội nghị đó, nhưng năm 1974, Trung Quốc đã sử dụng vũ lực để chiếm đóng toàn bộ quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Việt Nam Cộng hòa và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền nam Việt Nam đều lên tiếng phản đối hành động đó của Trung Quốc và khẳng định chủ quyền của mình.
Từ góc độ quốc tế, việc chiếm đóng bằng vũ lực lãnh thổ của một quốc gia là hành vi phi pháp và không đem lại chủ quyền cho Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa. Chính Bị vong lục ngày 12/5/1988 của Trung Quốc (một văn bản chính thức của Bộ Ngoại giao Trung Quốc) cũng khẳng định rõ nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế là "xâm lược không thể sinh ra chủ quyền" đối với một vùng lãnh thổ. 
Không có quốc gia nào trên thế giới công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa và việc Trung Quốc nói mình có chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam là hoàn toàn không có cơ sở pháp lý. 
Ông Trần Duy Hải cũng khẳng định việc Trung Quốc cho rằng Việt Nam đã thừa nhận một cách chính thức chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa là vô lý và Trung Quốc đã viện dẫn sai lệch công thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng năm 1958.
Trong bản viết sẵn lưu hành tại buổi họp báo quốc tế ngày 16/5/2014 cũng như trong các bài viết, phát biểu của quan chức Trung Quốc, Trung Quốc cho rằng Việt Nam đã phân lô 57 lô dầu khí, trong đó có 7 mỏ đã đi vào sản xuất và 37 giàn khoan tại các vùng biển có tranh chấp, nhưng không đưa ra được cơ sở pháp lý nào cho những tuyên bố này.
Việt Nam khẳng định mọi hoạt động dầu khí của Việt Nam từ lâu đến nay đều thực hiện hoàn toàn trên thềm lục địa Việt Nam, phù hợp với các quy định quốc tế và được cộng đồng quốc tế công nhận. Nhiều công ty dầu khí nước ngoài đã ký hợp đồng thăm dò, khai thác dầu khí với Việt Nam tại các lô thuộc thềm lục địa Việt Nam. 
Quan điểm trên của Trung Quốc thực chất là có ý đồ nhằm biến khu vực không có tranh chấp thành khu vực tranh chấp, thực hiện hóa yêu sách "đường lưỡi bò" bị cả cộng đồng quốc tế lên án. 
Nguyễn Hường