Bi kịch từ mảnh đất, một mạng người và hai án tù

22/10/2014 10:30
Duy Phong
(GDVN) - Từ năm 1994, trên cơ sở hồ sơ sử dụng đất, bà Nguyễn Thị Kiến được chính quyền cấp sổ đỏ. Tuy nhiên, sau đó, thửa đất này lại được xem là... “tài sản thừa kế”.

Chính quyền “giấu nhẹm” sổ đỏ của người dân… 7 năm

Trong đơn gửi Báo điện tử Giáo dục Việt Nam, bà Nguyễn Thị Kiến, sinh năm 1938, trú tại tổ 12, phường Gia Thụy, quận Long Biên (Hà Nội) cho biết: Bà là nguyên đơn trong một vụ án kéo dài gần 20 năm nay, bị đơn không ai khác chính là chị gái ruột của bà – Nguyễn Thị Viễn.

Năm 1994, bà Viễn bắt đầu đệ đơn ra Tòa khởi kiện đòi chia quyền thừa kế thửa đất 307m2 tại tổ 12, phường Gia Thụy là tài sản do mẹ 02 người để lại là bà Nguyễn Thị Hữu.

Bà Kiến cho rằng, năm 1950, gia đình bà đi tản cư về khu vực hiện nay thì nhà cửa đã bị giặc đốt hết, chỉ còn bãi đất hoang. Khi tản cư về, bà Hữu bị mù 02 mắt, không có nhà ở nên phải sang quê ngoại ở xã Long Biên ở tạm. Sau đó, gia đình bà Kiến được bà Nguyễn Thị Khiếu (con riêng của chồng bà Hữu) làm cho 03 gian nhà trên thửa đất đang tranh chấp hiện nay. Năm 1953, bà Viễn đi lấy chồng, một mình bà Kiến nuôi mẹ già mù và gồng thuê, gánh mướn để hình thành nên các tài sản trên đất.

Đơn kếu cứu của bà Kiến gửi Báo điện tử Giáo dục Việt Nam.
Đơn kếu cứu của bà Kiến gửi Báo điện tử Giáo dục Việt Nam.

Bà Viễn thì khẳng định, thửa đất là tài sản của mẹ bà nên theo Luật thừa kế bà được chia tài sản và năm 1994, bà Viễn đệ đơn khởi kiện ra tòa. Qua nhiều cấp xét xử từ sơ thẩm đến giám đốc thẩm, các bản án đều chấp nhận đơn khởi kiện của bà Viễn vì cho rằng thửa đất có diện tích 307mthuộc tài sản của bà Hữu. Do đó, các cơ quan xét xử quyết định chia thửa đất làm 3 phần, bà Kiến 2 phần và bà Viễn 1 phần (100m2). Tuy bản án đã có hiệu lực gần 20 năm nay nhưng vẫn không được thực thi vì gia đình bà Kiến vẫn tiếp tục "kêu oan".

Trong quá trình 02 gia đình tranh chấp, điều khiến nhiều người dân cũng như các cấp chính quyền tại địa phương cảm thấy bàng hoàng khi xảy ra một vụ án hình sự đau lòng. Đó là, thời điểm 2004, trong khi 02 gia đình đang "cãi nhau" chuyện thửa đất thì bất ngờ con rể của bà Viễn bị 02 người con trai của bà Kiến đâm trọng thương dẫn đến tử vong. Hai người con trai của bà Kiến bị pháp luật trừng trị khi một người phải nhận bản án chung thân và một người bản án hơn 10 năm.

Bản đồ địa chính và sổ mục kê thửa đất số 449, tờ bản đồ số 03 đều ghi chủ sử dụng đất là bà Nguyễn Thị Kiến
Bản đồ địa chính và sổ mục kê thửa đất số 449, tờ bản đồ số 03 đều ghi chủ sử dụng đất là bà Nguyễn Thị Kiến

Sau nhiều lần nhận được đơn kêu oan của gia đình bà Kiến, phóng viên Báo điện tử Giáo dục Việt Nam đã về tận địa phương “lục” lại toàn bộ hồ sơ thửa đất. Hồ sơ mà kho lưu trữ của UBND phường Gia Thụy cho thấy thửa đất đang tranh chấp (diện tích 307m2, số thửa 449, tờ bản đồ số 4) chỉ có 02 loại giấy tờ gốc là bản đồ địa chính (đo vẽ năm 1991) và sổ mục kê (năm 1993) đều đứng tên chủ sử dụng là bà Kiến. Không có bất cứ tài liệu nào thể hiện thửa đất số 449 là thuộc quyền sử dụng của bà Hữu.

Ngày 03/2/1994, UBND huyện Gia Lâm dựa trên hồ sơ sử dụng đất đã cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) cho bà Nguyễn Thị Kiến.

Trong các bản án của Tòa án cũng không nêu rõ căn cứ pháp lý để xác định đây là tài sản của cụ Hữu mà chủ yếu dựa vào lời khai nhân chứng.

Tòa xét xử trái thẩm quyền?

Một điều khó hiểu là kể từ khi bà Kiến được cơ quan Nhà nước cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (tháng 2/1994) thì phải mất 07 năm sau đó, bà mới nhận được UBND xã Gia Thụy bàn giao "sổ đỏ" vào ngày 26/2/2001.

Vì thế, trong suốt quá trình Tòa xét xử, lấy lời khai … (từ năm 1994 đến năm 2001) bà Kiến cũng không hề hay biết mình đã được Nhà nước cấp “sổ đỏ” để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình. Không chỉ bà Kiến mà trong các bản án từ sơ thẩm, phúc thẩm đến giám đốc thẩm các cơ quan tố tụng cũng không hề nhắc đến tình tiết bà Kiến được UBND huyện Gia Lâm cấp GCNQSDĐ ngày 03/2/1994.

Gần 20 năm sau khi có khởi kiện từ người chị gái, 02 mẹ con bà Kiến vẫn ngày đêm đi khiếu nại.
Gần 20 năm sau khi có khởi kiện từ người chị gái, 02 mẹ con bà Kiến vẫn ngày đêm đi khiếu nại. 

Việc cấp GCNQSDĐ là một tình tiết cực kỳ quan trọng vì nó quyết định thẩm quyền giải quyết thuộc cấp nào nhưng tại các bản án lại không được nhắc đến và dường như các cơ quan tố tụng cũng không hề hay biết việc bà Kiến đã được cấp GCNQSDĐ tháng 2/1994.

Điều 38, Luật Đất đai 1993 quy định: “2- Các tranh chấp về quyền sử dụng đất mà người sử dụng đất không có giấy chứng nhận của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thì do Uỷ ban nhân dân các cấp giải quyết…; 3- Các tranh chấp về quyền sử dụng đất mà người sử dụng đất đã có giấy chứng nhận của cơquan Nhà nước có thẩm quyền và tranh chấp về tài sản gắn liền với việc sử dụng đất đó thì do Toà án giải quyết”. Như vậy, cả đương sự và các cơ quan tiến hành xét xử đều không hề hay biết thửa đất đã có "sổ đỏ" nhưng vẫn đưa vụ án ra xét xử thì có “trái thẩm quyền”?. Nếu chưa được cấp "sổ đỏ" thì thẩm quyền giải quyết phải thuộc UBND các cấp, còn nếu có sổ đỏ thì bà Kiến phải được nhận và trong các bản án của Tòa phải thể hiện.

Ông Đặng Trần Phú, Phó Chủ tịch UBND phường Gia Thụy cho biết, trong các hồ sơ thửa đất mà phường đang lưu giữ tất cả đều đứng tên bà Kiến, không có tài liệu nào thể hiện thửa đất thuộc quyền sử dụng của bà Hữu.
Ông Đặng Trần Phú, Phó Chủ tịch UBND phường Gia Thụy cho biết, trong các hồ sơ thửa đất mà phường đang lưu giữ tất cả đều đứng tên bà Kiến, không có tài liệu nào thể hiện thửa đất thuộc quyền sử dụng của bà Hữu.

Tại bản án mới nhất ngày là Bản án số 272/PTDS ngày 07/10/1996 của Tòa án nhân dân TP.Hà Nội cũng chỉ ghi: Năm 1991, Sở quản lý ruộng đất và đo đạc bản đồ về đo kiểm tra để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho nhân dân xã Gia Thụy… Hộ gia đình bà Kiến đang có tranh chấp nên UBND xã đã dừng lại chưa cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Kiến”. Không hề nhắc đến việc bà Kiến đã được cấp GCNQSDĐ vào tháng 2/1994.

Không chỉ dừng lại ở thẩm quyền mà trong quá trình thi hành bản án, UBND huyện Gia Lâm (nay là UBND quận Long Biên) lại làm một quy trình “tùy tiện”. Bởi đúng theo quy trình, khi bản án có hiệu lực thì UBND huyện Gia Lâm phải có quyết định thu hồi, hủy bỏ và cấp lại GCNQSDĐ.

Tuy nhiên, UBND huyện Gia Lâm lại giữ “sổ đỏ” của người dân trong vòng 07 năm, khi người dân nhận được sổ thì lại thấy ghi thêm phần thay đổi sau khi cấp giấy chứng nhận: “Thửa số 449, tờ số 04 có diện tích 307m2 thôn Gia Thụy, xã Gia Thụy. Chủ sử dụng là bà Nguyễn Thị Kiến đã chuyển quyền sử dụng 100m2 sang cho bà Nguyễn Thị Viễn theo Bản án phúc thẩm dân sự số 272/PTDS ngày 07/10/1996 của TAND TP.Hà Nội, còn lại 207m2”.

Với phần nội dung “tùy tiện” này, bà Kiến cho rằng: “GCNQSDĐ mà Nhà nước cấp cho tôi với diện tích 307m2 vẫn còn nguyên giá trị vì chưa bị hủy bỏ và UBND huyện không có quyền tự ý chuyển nhượng một phần diện tích thửa đất sang cho người khác. Mẹ tôi làm gì có đất ở đây, sao lại lấy đất của tôi - đã được Nhà nước cấp Giấy chứng nhận chia cho người khác?”.

Trao đổi với phóng viên Báo điện tử Giáo dục Việt Nam, ông Đặng Trần Phú, Phó Chủ tịch UBND phường Gia Thụy cho biết: "Năm 2004, UBND phường mới được thành lập và tiếp nhận hồ sơ thửa đất của gia đình bà Kiến. Trong hồ sơ thửa đất có 02 loại giấy tờ lâu nhất là bản đồ địa chính (1991), sổ mục kê (1993) đều đứng tên chủ sử dụng đất là bà Kiến. Hồ sơ để cấp giấy chứng nhận QSDĐ cho bà Kiến, hiện UBND phường không được bàn giao. Đáng lẽ ra, sau khi bản án có hiệu lực thì UBND huyện phải thu hồi, hủy và cấp 02 giấy chứng nhận tách riêng thì không dẫn đến sự rắc rối như bây giờ. Việc sổ đỏ vẫn đứng tên bà Kiến là một mấu chốt của vụ việc này. Không thể khẳng định tất cả vụ án Tòa xét xử đều đúng cả, như vụ việc ông Chấn chẳng hạn. Trách nhiệm của phường hiện nay là đảm bảo tình hình an ninh trật tự chứ không có trách nhiệm giải quyết tranh chấp...".

Đề nghị cơ quan có thẩm quyền sớm xem xét, kiểm tra, xử lý vụ việc tranh chấp của gia đình bà Nguyễn Thị Kiến để tránh oan sai.

Báo điện tử Giáo dục Việt Nam sẽ tiếp tục thông tin.

Duy Phong