BIDV chỉ ra những rủi ro nếu thu cổ tức ngân hàng bằng tiền mặt

13/06/2016 16:39
Hồng Minh
(GDVN) - Có hai rủi ro lớn đối với ngành ngân hàng và nền kinh tế khi tình trạng suy giảm năng lực tài chính các ngân hàng thương mại nhà nước không được giải quyết.

Hệ số an toàn vốn suy giảm nghiêm trọng

Trung tâm nghiên cứu Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) vừa có báo cáo yêu cầu tăng cường năng lực tài chính của các ngân hàng thương mại nhà nước cho mục tiêu phát triển kinh tế đất nước.

Theo đó, Trung tâm nghiên cứu BIDV đánh giá phát triển kinh tế Việt Nam những năm qua có sự đóng góp rất lớn của ngành ngân hàng.

Xét trong tổng thể hệ thống tài chính Việt Nam, tính đến hết năm 2015, khu vực ngân hàng đang chiếm tỷ trọng rất lớn với tổng tài sản chiếm tới 75% tổng tài sản hệ thống tài chính.

Trung tâm nghiên cứu Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) vừa đưa ra đánh giá năng lực tài chính của hệ thông ngân hàng thương mại nhà nước - ảnh nguồn BIDV
Trung tâm nghiên cứu Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) vừa đưa ra đánh giá năng lực tài chính của hệ thông ngân hàng thương mại nhà nước - ảnh nguồn BIDV

Trong đó, tổng dư nợ tín dụng hệ thống cung cấp cho nền kinh tế lên tới 4.656 nghìn tỷ đồng, bằng 111% GDP. Với quy mô lớn như vậy, nguồn tín dụng ngân hàng đang đóng vai trò là kênh dẫn vốn chính của nền kinh tế với tỷ trọng chiếm khoảng 40-45% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. 

Trong thành công chung của ngành, khối ngân hàng thương mại nhà nước đóng vai trò trọng yếu bằng việc đi đầu, dẫn dắt toàn ngành trong thực hiện chủ trương chính sách của Chính phủ và ngành.

Đến cuối năm 2015, khối Ngân hàng thương mại nhà nước gồm 4 ngân hàng Agribank, BIDV, Vietinbank, Vietcombank chiếm 45% tổng tài sản, 50,2% tổng dư nợ tín dụng và 46,3% nguồn vốn huy động của toàn hệ thống tính. 

Trong giai đoạn 2011-2015, khối ngân hàng thương mại nhà nước đã đóng góp chính vào tăng trưởng toàn ngành với mức tăng trưởng tổng tài sản bình quân ở mức 13,8%/năm cao hơn mức 10,3%/năm của toàn hệ thống, tăng trưởng tín dụng ở mức 17,1%/năm so với mức 13,5%/năm toàn ngành.

Đóng góp lớn tăng trưởng nhưng hiện nay khối ngân hàng thương mại nhà nước đang gặp khó khăn về tài chính, hệ số an toàn vốn (CAR) bị suy giảm nghiêm trọng.

Cụ thể, giai đoạn 2011-2015, tài sản có rủi ro của khối ngân hàng thương mại nhà nước tăng trưởng trung bình ở mức 19,4%/năm, cao hơn mức tăng 15,43%/năm của vốn tự có, dẫn đến CAR của khối giảm từ mức 10,8% năm 2011 xuống mức 9,4% hiện nay – gần chạm ngưỡng tối thiểu 9% theo quy định của Ngân hàng Nhà nước, thấp hơn mức bình quân của ASEAN là 10,3% (đồng thời  tiêu chuẩn tính của Việt Nam thấp hơn). 

Tình trạng vốn tự có tăng không đủ bù đắp mức tăng tài sản có rủi ro của khối ngân hàng thương mại nhà nước làm suy giảm CAR chủ yếu do 2 nguyên nhân: Khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại nhà nước bị co hẹp từ mức 2,5% năm 2011 giảm còn 2,2% năm 2012 và tiếp tục giảm xuống mức 1,7-1,8% giai đoạn 2013 – 2015).

Hai là trong giai đoạn ngành ngân hàng Việt Nam triển khai nhiều biện pháp để áp dụng các chuẩn mực thông lệ quốc tế theo Basel trong tính toán CAR nên vừa làm giảm tốc độ tăng Vốn tự có và vừa làm tăng tốc độ tăng TSCRR so với trước đây, từ đó tác động tiêu cực đến CAR.

Những rủi ro đối với hệ thống ngân hàng và nền kinh tế 

Theo Trung tâm nghiên cứu BIDV, tình trạng suy giảm năng lực tài chính các ngân hàng thương mại nhà nước không được giải quyết đang mang đến hai rủi ro cho hệ thống ngân hàng và nền kinh tế.

Thứ nhất, nếu ngân hàng thương mại nhà nước không được tăng vốn trong năm 2016 (tương ứng với việc Nhà nước thu về toàn bộ cổ tức năm 2015), sẽ dẫn đến vốn tự có của khối sẽ ở mức bằng năm 2015 là 203 nghìn tỷ đồng và khả năng tăng trưởng tài sản có rủi ro còn lại chỉ là 101 nghìn tỷ đồng, tương ứng với mức tăng trưởng 4,67% so với năm 2015 và tăng trưởng tín dụng ở mức 7-8% năm 2016. 

Khi đó, dư nợ tín dụng mỗi năm bị thiếu hụt mất 280 nghìn tỷ đồng.

Số vốn tín dụng thiếu hụt sẽ làm giảm GDP trung bình 1 năm trong giai đoạn 2016-2020 ở mức 69,1 nghìn tỷ đồng/năm sẽ tương ứng với mức giảm tăng trưởng GDP (theo giá so sánh) là 0,55%-0,6%/năm. 

Theo đó, dự kiến tăng trưởng GDP giai đoạn 2016-2020 sẽ chỉ ở mức 6,05-6,4%/năm.

Thứ hai nếu vốn tự có của khối ngân hàng thương mại nhà nước tăng lên từ nguồn lợi nhuận giữ lại với ước tính ở mức 8,34%/năm (căn cứ theo mức tăng vốn tự có của khối ngân hàng thương mại cổ phần giai đoạn 2011-2015), không có nguồn tăng vốn bổ sung từ bên ngoài (tức nhà nước thu toàn bộ cổ tức), hệ quả có thể xảy ra vốn tự có của khối năm 2016 sẽ ở mức 220,3 nghìn tỷ đồng và khả năng tăng trưởng tài sản có rủi ro sẽ ở mức 289,2 nghìn tỷ đồng (tương ứng với mức CAR 9%), tương ứng với mức tăng trưởng tài sản có rủi ro 13,4% và tăng trưởng tín dụng ở mức 15-16%  so với năm 2015. 

Khi đó dư nợ tín dụng mỗi năm bị thiếu hụt mất 108,2 nghìn đồng. Từ đó, dự kiến tăng trưởng GDP giai đoạn 2016-2020 sẽ chỉ ở mức 6,3-6,7%/năm. 

Việc tăng trưởng tín dụng thấp hơn so với yếu cầu còn có ảnh hưởng trực tiếp làm thu lãi tín dụng và lợi nhuận của khối ngân hàng thương mại nhà nước, từ đó làm giảm thuế nộp ngân sách nhà nướcvà giảm thu nhập của người lao động.

Theo tính toán, việc tăng trưởng tín dụng giảm so với yêu cầu ở mức 5-10% trong vòng 5 năm (2016-2020) sẽ làm giảm khoản thu của ngân sách khoảng 1.800 – 5.000 tỷ đồng tiền thuế.

Khó khăn áp dụng các biện pháp tăng vốn

Trung tâm nghiên cứu của BIDV đánh giá ,các ngân hàng thương mại nhà nước đang trong tình trạng khó khăn khi thực hiện các giải pháp tăng vốn nhằm đảm bảo năng lực tài chính.

Cụ thể, đối với việc tăng vốn từ giải pháp giảm chi trả cổ tức, trong giai đoạn 2013 – 2014, theo yêu cầu của cơ quan quản lý nhà nước toàn bộ cổ tức của ngân hàng thương mai không được sử dụng để gia tăng năng lực tài chính của ngân hàng phải chuyển nộp về ngân sách nhà nước. 

Trong điều kiện các giải pháp tăng vốn khác chưa thực hiện được ngay thì việc tăng vốn từ nguồn lợi nhuận tạo ra của năm 2015 và 2016 là giải pháp thuận lợi nhất cho các ngân hàng, tuy nhiên giải pháp này đang gặp vướng mắc từ cơ quan quản lý Nhà nước là Bộ Tài chính (Thông tư 61/2016/TT-BTC yêu cầu phải chuyển toàn bộ cổ tức của cổ đông nhà nước về ngân sách nhà nước).

Nếu xảy ra, có vẻ như vai trò cổ đông của nhà nước tại các ngân hàng thương mại nhà nước đang chưa thực sự chuyên nghiệp và điều này có thể ảnh hưởng đến cổ đông hiện hữu khác cũng như việc thu hút cổ đông mới trong tương lai.

Ở khía cạnh khác, dường như các ngân hàng thương mại nhà nước ngoài chức năng thực hiện chính sách tiền tệ vốn đã rất nặng nề đang phải gánh thêm áp lực từ chính sách tài khóa.

Về giải pháp tăng vốn từ phát hành thêm cổ phần cho nhà đầu tư hiện hữu, thu hút thêm nhà đầu tư và lựa chọn nhà đầu tư chiến lược nước ngoài, BIDV cho rằng đây là giải pháp không dễ dàng thực hiện ngay trong ngắn hạn và sự thành công của giải pháp còn phụ thuộc vào 2 yếu tố là mức độ quan tâm của nhà đầu tư và điều kiện thị trường.

Hiện nay cả 2 yếu tố này đều không thuận lợi cho các ngân hàng thương mại.

Đối với yếu tố thứ nhất, hiện nay tâm lý chung của hầu hết các nhà đầu tư đều đánh giá việc đầu tư vào các ngân hàng thương mại nhà nước là khá rủi ro do năng lực tài chính hạn chế.

Đối với yếu tố thị trường, hiện nay ngồn vốn đầu tư trên thị trường chứng khoán chưa thực sự tốt, việc thu hút nguồn vốn từ nước ngoài cũng khó khăn do xu hướng chung dòng vốn đầu tư quốc tế đang trở lại Mỹ, và ngay cả khi lựa chọn được nhà đầu tư để tăng vốn thì các ngân hàng thương mại nhà nước vẫn còn gặp phải nhiều rào cản. 

Còn việc tăng vốn từ giải pháp thực hiện tiết kiệm chi phí quản lý, mở rộng các nguồn thu ngoài lãi, BIDV đánh giá giải pháp này chỉ bù đắp được một phần nhỏ nhu cầu tăng vốn.

Tăng vốn từ nguồn bổ sung ngân sách nhà nước là giải pháp cơ bản nhất, phù hợp nhất trong tình hình hiện nay theo kinh nghiệm các nước trên thế giới và cũng đã được Ngân hàng Nhà nước cam kết xem xét để thực hiện. Tuy nhiên, theo BIDV, đến nay giải pháp này vẫn chưa có kết quả. Nguyên nhân cơ bản vẫn là điều kiện ngân sách hiện nay đang eo hẹp và không cho phép thực hiện.

Đồng thời, việc tăng vốn từ việc tăng khả năng sinh lời và thực hiện điều chỉnh cơ cấu bảng tổng kết tài sản giúp giảm tài sản có rủi ro, BIDV đánh giá cả 2 giải pháp này đều không khả thi đối với các ngân hàng thương mại nhà nước hiện nay do phải thực hiện nhiệm vụ hỗ trợ tăng trưởng kinh tế đất nước khiến việc cấu trúc lại tài sản có rủi ro hay tăng lãi suất là không thực hiện được.

BIDV chỉ ra những rủi ro nếu thu cổ tức ngân hàng bằng tiền mặt ảnh 2

Bộ Tài chính bác tin yêu cầu ngân hàng chia cổ tức vì ngân sách khó khăn

(GDVN) - Lãnh đạo Bộ Tài chínhcho rằng, nếu các ngân hàng muốn giữ lại cổ tức nếu để tăng vốn điều lệ thì phải được sự chấp thuận của cơ quan chức năng.

BIDV chỉ ra những rủi ro nếu thu cổ tức ngân hàng bằng tiền mặt ảnh 3

BIDV trả cổ tức "theo quyết định cuối cùng của cơ quan nhà nước có thẩm quyền"

(GDVN) - Hội đồng quản trị BIDV cho biết sẽ thực hiện điều chỉnh phương án chi trả cổ tức "theo quyết định cuối cùng của cơ quan nhà nước có thẩm quyền".

Trong đó, tổng dư nợ tín dụng hệ thống cung cấp cho nền kinh tế lên tới 4.656 nghìn tỷ đồng, bằng 111% GDP. Với quy mô lớn như vậy, nguồn tín dụng ngân hàng đang đóng vai trò là kênh dẫn vốn chính của nền kinh tế với tỷ trọng chiếm khoảng 40-45% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. 

Trong thành công chung của ngành, khối ngân hàng thương mại nhà nước đóng vai trò trọng yếu bằng việc đi đầu, dẫn dắt toàn ngành trong thực hiện chủ trương chính sách của Chính phủ và ngành.

Đến cuối năm 2015, khối Ngân hàng thương mại nhà nước gồm 4 ngân hàng Agribank, BIDV, Vietinbank, Vietcombank chiếm 45% tổng tài sản, 50,2% tổng dư nợ tín dụng và 46,3% nguồn vốn huy động của toàn hệ thống tính. 

Trong giai đoạn 2011-2015, khối ngân hàng thương mại nhà nước đã đóng góp chính vào tăng trưởng toàn ngành với mức tăng trưởng tổng tài sản bình quân ở mức 13,8%/năm cao hơn mức 10,3%/năm của toàn hệ thống, tăng trưởng tín dụng ở mức 17,1%/năm so với mức 13,5%/năm toàn ngành.

Đóng góp lớn tăng trưởng nhưng hiện nay khối ngân hàng thương mại nhà nước đang gặp khó khăn về tài chính, hệ số an toàn vốn (CAR) bị suy giảm nghiêm trọng.

Cụ thể, giai đoạn 2011-2015, tài sản có rủi ro của khối ngân hàng thương mại nhà nước tăng trưởng trung bình ở mức 19,4%/năm, cao hơn mức tăng 15,43%/năm của vốn tự có, dẫn đến CAR của khối giảm từ mức 10,8% năm 2011 xuống mức 9,4% hiện nay – gần chạm ngưỡng tối thiểu 9% theo quy định của Ngân hàng Nhà nước, thấp hơn mức bình quân của ASEAN là 10,3% (đồng thời  tiêu chuẩn tính của Việt Nam thấp hơn). 

Tình trạng vốn tự có tăng không đủ bù đắp mức tăng tài sản có rủi ro của khối ngân hàng thương mại nhà nước làm suy giảm CAR chủ yếu do 2 nguyên nhân: Khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại nhà nước bị co hẹp từ mức 2,5% năm 2011 giảm còn 2,2% năm 2012 và tiếp tục giảm xuống mức 1,7-1,8% giai đoạn 2013 – 2015).

Hai là trong giai đoạn ngành ngân hàng Việt Nam triển khai nhiều biện pháp để áp dụng các chuẩn mực thông lệ quốc tế theo Basel trong tính toán CAR nên vừa làm giảm tốc độ tăng Vốn tự có và vừa làm tăng tốc độ tăng TSCRR so với trước đây, từ đó tác động tiêu cực đến CAR.

Những rủi ro đối với hệ thống ngân hàng và nền kinh tế 

Theo Trung tâm nghiên cứu BIDV, tình trạng suy giảm năng lực tài chính các ngân hàng thương mại nhà nước không được giải quyết đang mang đến hai rủi ro cho hệ thống ngân hàng và nền kinh tế.

Thứ nhất, nếu ngân hàng thương mại nhà nước không được tăng vốn trong năm 2016 (tương ứng với việc Nhà nước thu về toàn bộ cổ tức năm 2015), sẽ dẫn đến vốn tự có của khối sẽ ở mức bằng năm 2015 là 203 nghìn tỷ đồng và khả năng tăng trưởng tài sản có rủi ro còn lại chỉ là 101 nghìn tỷ đồng, tương ứng với mức tăng trưởng 4,67% so với năm 2015 và tăng trưởng tín dụng ở mức 7-8% năm 2016. 

Khi đó, dư nợ tín dụng mỗi năm bị thiếu hụt mất 280 nghìn tỷ đồng.

Số vốn tín dụng thiếu hụt sẽ làm giảm GDP trung bình 1 năm trong giai đoạn 2016-2020 ở mức 69,1 nghìn tỷ đồng/năm sẽ tương ứng với mức giảm tăng trưởng GDP (theo giá so sánh) là 0,55%-0,6%/năm. 

Theo đó, dự kiến tăng trưởng GDP giai đoạn 2016-2020 sẽ chỉ ở mức 6,05-6,4%/năm.

Thứ hai nếu vốn tự có của khối ngân hàng thương mại nhà nước tăng lên từ nguồn lợi nhuận giữ lại với ước tính ở mức 8,34%/năm (căn cứ theo mức tăng vốn tự có của khối ngân hàng thương mại cổ phần giai đoạn 2011-2015), không có nguồn tăng vốn bổ sung từ bên ngoài (tức nhà nước thu toàn bộ cổ tức), hệ quả có thể xảy ra vốn tự có của khối năm 2016 sẽ ở mức 220,3 nghìn tỷ đồng và khả năng tăng trưởng tài sản có rủi ro sẽ ở mức 289,2 nghìn tỷ đồng (tương ứng với mức CAR 9%), tương ứng với mức tăng trưởng tài sản có rủi ro 13,4% và tăng trưởng tín dụng ở mức 15-16%  so với năm 2015. 

Khi đó dư nợ tín dụng mỗi năm bị thiếu hụt mất 108,2 nghìn đồng. Từ đó, dự kiến tăng trưởng GDP giai đoạn 2016-2020 sẽ chỉ ở mức 6,3-6,7%/năm. 

Việc tăng trưởng tín dụng thấp hơn so với yếu cầu còn có ảnh hưởng trực tiếp làm thu lãi tín dụng và lợi nhuận của khối ngân hàng thương mại nhà nước, từ đó làm giảm thuế nộp ngân sách nhà nướcvà giảm thu nhập của người lao động.

Theo tính toán, việc tăng trưởng tín dụng giảm so với yêu cầu ở mức 5-10% trong vòng 5 năm (2016-2020) sẽ làm giảm khoản thu của ngân sách khoảng 1.800 – 5.000 tỷ đồng tiền thuế.

Khó khăn áp dụng các biện pháp tăng vốn

Trung tâm nghiên cứu của BIDV đánh giá, các ngân hàng thương mại nhà nước đang trong tình trạng khó khăn khi thực hiện các giải pháp tăng vốn nhằm đảm bảo năng lực tài chính.

Cụ thể, đối với việc tăng vốn từ giải pháp giảm chi trả cổ tức, trong giai đoạn 2013 – 2014, theo yêu cầu của cơ quan quản lý nhà nước toàn bộ cổ tức của ngân hàng thương mai không được sử dụng để gia tăng năng lực tài chính của ngân hàng phải chuyển nộp về ngân sách nhà nước. 

Trong điều kiện các giải pháp tăng vốn khác chưa thực hiện được ngay thì việc tăng vốn từ nguồn lợi nhuận tạo ra của năm 2015 và 2016 là giải pháp thuận lợi nhất cho các ngân hàng, tuy nhiên giải pháp này đang gặp vướng mắc từ cơ quan quản lý Nhà nước là Bộ Tài chính (Thông tư 61/2016/TT-BTC yêu cầu phải chuyển toàn bộ cổ tức của cổ đông nhà nước về ngân sách nhà nước).

Nếu xảy ra, có vẻ như vai trò cổ đông của nhà nước tại các ngân hàng thương mại nhà nước đang chưa thực sự chuyên nghiệp và điều này có thể ảnh hưởng đến cổ đông hiện hữu khác cũng như việc thu hút cổ đông mới trong tương lai.

Ở khía cạnh khác, dường như các ngân hàng thương mại nhà nước ngoài chức năng thực hiện chính sách tiền tệ vốn đã rất nặng nề đang phải gánh thêm áp lực từ chính sách tài khóa.

Về giải pháp tăng vốn từ phát hành thêm cổ phần cho nhà đầu tư hiện hữu, thu hút thêm nhà đầu tư và lựa chọn nhà đầu tư chiến lược nước ngoài, BIDV cho rằng đây là giải pháp không dễ dàng thực hiện ngay trong ngắn hạn và sự thành công của giải pháp còn phụ thuộc vào 2 yếu tố là mức độ quan tâm của nhà đầu tư và điều kiện thị trường.

Hiện nay cả 2 yếu tố này đều không thuận lợi cho các ngân hàng thương mại.

Còn việc tăng vốn từ giải pháp thực hiện tiết kiệm chi phí quản lý, mở rộng các nguồn thu ngoài lãi, BIDV đánh giá giải pháp này chỉ bù đắp được một phần nhỏ nhu cầu tăng vốn.

Tăng vốn từ nguồn bổ sung ngân sách nhà nước là giải pháp cơ bản nhất, phù hợp nhất trong tình hình hiện nay theo kinh nghiệm các nước trên thế giới và cũng đã được Ngân hàng Nhà nước cam kết xem xét để thực hiện. Tuy nhiên, theo BIDV, đến nay giải pháp này vẫn chưa có kết quả. Nguyên nhân cơ bản vẫn là điều kiện ngân sách hiện nay đang eo hẹp và không cho phép thực hiện.

Đồng thời, việc tăng vốn từ việc tăng khả năng sinh lời và thực hiện điều chỉnh cơ cấu bảng tổng kết tài sản giúp giảm tài sản có rủi ro, BIDV đánh giá cả 2 giải pháp này đều không khả thi đối với các ngân hàng thương mại nhà nước hiện nay do phải thực hiện nhiệm vụ hỗ trợ tăng trưởng kinh tế đất nước khiến việc cấu trúc lại tài sản có rủi ro hay tăng lãi suất là không thực hiện được.

Hồng Minh