Khủng hoảng truyền thông ở Mỹ

11/09/2018 07:00
Nguyễn Quang Dy
(GDVN) - Nếu muốn hướng tới thế giới công nghệ 4.0 mà vẫn bám giữ vào hằng số tư tưởng 0.4 của thế giới cũ, người ta sẽ tiếp tục mắc kẹt vào tư duy nguyên trạng.

Không có một quốc gia nào trên thế giới có tần suất khủng hoảng truyền thông nhiều như Mỹ.

Khủng hoảng truyền thông như cơm bữa nên làm người Mỹ quen như “chuyện bình thường” (new normal). Đó là một đặc thù kiểu Mỹ không thể khác, làm cho nước Mỹ hấp dẫn và mạnh.

Đạo luật bổ sung thứ nhất (first amendment) về tự do báo chí là một trụ cột của sức mạnh Mỹ (dù đang bị Trump thách thức).

Đối với nhiều người, thật khó phân biệt khi nào khủng hoảng truyền thông biến thành khủng hoảng chính trị, hay khủng hoảng hiến pháp.

Có lẽ, bóng ma Watergate không bao giờ chết và đạo luật bổ sung thứ 25 là một răn đe đối với bất kỳ tổng thống nào (nếu không muốn bị phế truất).

Đó là nghịch lý của hệ thống chính trị Mỹ, làm cho nước Mỹ trở thành độc đáo (exceptionalism), nhưng dễ tổn thương.

Những quả bom truyền thông

Tuần qua có hai sự kiện truyền thông nổi bật làm rúng động chính trường Mỹ, trong khi cuộc điều tra của Robert Mueller vẫn như “thanh gươm Damocle” đang treo lơ lửng trên đầu Tổng thống Trump.

Thứ nhất là bài báo nặc danh (anonymous op-ed) đăng trên New York Times (5/8/2018) mà tác giả là “một quan chức cao cấp của chính quyền” (a senior administration official) cùng một nhóm phản kháng ngầm đang kiềm chế Trump.

Tuy hiện tượng “rò rỉ thông tin” (leaking) là chuyện thường xuyên trong Nhà Trắng, nhưng sự kiện đầy kịch tính này đang làm Nhà Trắng đau đầu đối phó, như phải dập một đám cháy lớn.

Tổng thống Mỹ Donald Trump ( Ảnh minh họa: AFP/TTXVN).
Tổng thống Mỹ Donald Trump ( Ảnh minh họa: AFP/TTXVN).

Tuy các quan chức hàng đầu Nhà trắng đã lên tiếng phủ nhận (it wasn’t me), và Trump yêu cầu Bộ trưởng Tư pháp phải điều tra, nhưng sau một tuần vẫn chưa biết ai là thủ phạm (who did it).   

Sự kiện thứ hai là cuốn sách mới của nhà báo Bob Woodward (“Fear: Trump in the Whitehouse, Simon & Schuster”, September 11, 2018) như một quả bom truyền thông.

Cuốn sách này được công bố chỉ một ngày sau sự kiện bài báo nặc danh trên New York Times.

Sự trùng hợp về thời điểm, cũng như nội dung câu chuyện được kể làm cho đám cháy và quả bom này tai hại hơn nhiều đối với Trump (khi cuộc bầu cử giữa kỳ đang tới gần).

Cách đây không lâu, có mấy sự kiện truyền thông khác cũng làm dư luận xôn xao.

Đó là cuốn sách của nhà báo Michael Wolff (“Fire and Fury”, Holt, January 5, 2018) và cuốn sách của Omarosa Manigault là một trợ lý Nhà Trắng bị sa thải (“Unhinged: An Insider's Account of the Trump White House”, Simon & Schuster, August 14, 2018).

Nhưng, so với hai sự kiện truyền thông đó, quả bom Woodward có sức công phá lớn hơn nhiều, như một quả “bom tấn” (blockbuster).

Bob Woodward là một nhà báo kỳ cựu của Washington Post, không phải là một nhân vật bình thường, mà là một tên tuổi lớn của báo chí Mỹ mà các tổng thống đều biết tiếng (và ngại).

Ông là tác giả của 18 cuốn sách viết về các đời tổng thống Mỹ, từ thời Richard Nixon (và bi kịch Watergate), trong đó có 12 cuốn được xếp hạng “bán chạy nhất toàn quốc” (number one national best seller).

Woodward giành được 2 giải Pulitzer (một thành tích hiếm có đối với các nhà báo).

Woodward nổi tiếng không phải chỉ do viết nhiều mà do uy tín và chất lượng, vì ông rất thận trọng kiểm tra lại các nguồn được trích dẫn trực tiếp.

Trong cuốn sách mới (Fear), Woodward đã sử dụng một cách trích dẫn gián tiếp mà ông gọi là “deep background”.  

Bob Woodward là tác giả cuốn sách “Fear: Trump in the White House” (Ảnh minh họa: Getty).
Bob Woodward là tác giả cuốn sách “Fear: Trump in the White House” (Ảnh minh họa: Getty).

Tuy hãy còn quá sớm để đánh giá hệ quả của các sự kiện truyền thông nói trên, nhưng có thể hình dung nước Mỹ đang trải qua một cuộc khủng hoảng truyền thông, gắn liền với một cuộc khủng hoảng chính trị sâu sắc, đang đặt ra những vấn đề cơ bản về thể chế chính trị.

Có lẽ đây là vấn đề toàn cầu chứ không riêng nước Mỹ, nhưng nó được bộc lộ rõ hơn ở Mỹ.

Những giá trị cơ bản của dân chủ tự do (liberal democracy) và tự do ngôn luận (freedom of speech) đang bị thách thức.

Không phải ngẫu nhiên mà Trump tỏ ra thù địch với giới báo chí, thường gọi báo chí là “tin vịt” (fake news) và gọi các nhà báo là “kẻ thù của nhân dân” (enemy of the people).

Không phải chỉ tự do ngôn luận, mà “chính trị bản sắc” (identity politics) cũng bị thách thức, phản ánh xu hướng bảo thủ mới (neo-conservatism) và dân túy (populism).  

Một nước Mỹ bị chia rẽ

Trong bối cảnh đó, cuộc bầu cử giữa kỳ sắp tới (11/2018) có ý nghĩa quan trọng.

Thứ nhất, nó xác định lại tâm trạng và thái độ của cử tri Mỹ đối với Trump mà họ đã bỏ phiếu ủng hộ cách đây gần hai năm và dự báo xu hướng chính trị hai năm tới khi cử tri Mỹ bầu lại Tổng thống.

Thứ hai, nó xác định lại cán cân chính trị giữa hai đảng Cộng hòa và Dân chủ trong Quốc hội, nếu phe Dân chủ chiếm được đa số thì Trump dễ sa vào một cuộc khủng hoảng chính trị và hiến pháp, nếu điều tra của Robert Mueller khẳng định sự dính líu của Trump đối với người Nga trong tranh cử, mở ra khả năng phế truất (theo “25th amendment”).

Khủng hoảng truyền thông ở Mỹ ảnh 3Trump mời Putin đến Nhà Trắng có làm Trung Quốc đi theo con đường Triều Tiên?

Ngày 16/8/2018, có 343 tờ báo khắp nước Mỹ đã hưởng ứng lời kêu gọi của báo Boston Globe, cùng đăng xã luận để phản đối “cuộc chiến tranh bẩn thỉu” (dirty war) của Trump chống lại tự do báo chí.

Tuy có rất nhiều báo tham gia, trong đó có những báo lớn như New York Times, nhưng cũng còn nhiều báo khác không tham gia (như Wall Street Journal).

Không phải chỉ nước Mỹ bị chia rẽ mà báo chí Mỹ cũng đang bị phân hóa.

Có lẽ đó là hệ quả không định trước của bầu cử Tổng thống Mỹ cuối năm 2016 như một sự kiện chính trị chia rẽ nước Mỹ chưa từng có, làm nhiều người gọi nước Mỹ là “the Divided States of America”. 

Trong bài xã luận với tiêu đề “Tự do báo chí cần các bạn”, báo New York Times viết rằng nếu gọi sự thật mà mình không thích là “tin vịt” (fake news) “là nguy hiểm cho dòng chảy của dân chủ” (dangerous to the lifeblood of democracy), và gọi báo chí là “kẻ thù của nhân dân” là nguy hiểm cho các nhà báo.

Ông AG. Sulzberger (Chủ báo New York Times) khi gặp riêng Tổng thống Trump (tháng 7/2018) đã nói “ngôn từ của Tổng thống đang góp phần làm tăng nguy cơ đối với các nhà báo và dẫn đến bạo lực”. 

Tuy Trump nổi tiếng hay nói dối, nhưng ông cũng hay dùng những từ ngữ thô thiển để thóa mạ những người mà ông không thích, thậm chí cả phụ nữ như Omarosa Manigault là “hạ đẳng” (lowlife) và “đồ...” (dog).  

Theo kết quả khảo sát dư luận của Trường đại học Quinnipiac University, trong khi “51% cử tri đảng Cộng hòa cho rằng báo chí là “kẻ thù của nhân dân” chứ không phải là một phần quan trọng của nền dân chủ, thì 65% cử tri nói chung cho rằng báo chí là một phần quan trọng của nền dân chủ.

Một khảo sát khác trong tháng này cũng có kết quả tương tự: khoảng 23% những người ủng hộ đảng Cộng hòa (và khoảng 1/8 người Mỹ nói chung) cho rằng Trump nên đóng cửa báo chí chủ lưu như CNN, Washington Post và New York Times.

Đổi mới tư duy

Đó là vắn tắt mấy nét (hơi tiêu cực) về bức tranh chính trị nội bộ của Mỹ vào thời điểm này, trong khi bức tranh kinh tế và chính trị quốc tế của chính quyền Trump có vẻ sáng sủa và tích cực hơn, nhất là về triển vọng chiến tranh thương mại Mỹ - Trung đang bước vào giai đoạn hai (từ 6/9/2018).

Khủng hoảng truyền thông ở Mỹ ảnh 4"Donald Trump sẽ đứng vững bất chấp cơn bão mới"

Thành tích đối ngoại của Trump (với Triều Tiên) là không thể phủ nhận.

Đó là những mảng màu khác biệt (cũng như tính cách khác thường, khó đoán của Trump). Vì vậy, đánh giá về Trump là một việc khó, thường dễ ngộ nhận và nhầm lẫn.

Gần đây, quan điểm đánh giá về Trump có sự phân hóa theo hướng hơi vũ đoán (như “thầy bói sờ voi”).

Một số người chỉ trích Trump thậm tệ (bất chấp những thành tích khó phủ nhận), trong khi một số khác lại khen Trump hết lời (bất chấp những bê bối cũng khó phủ nhận).

Không phải chỉ có Trump (hay Trumpism) có vấn đề, mà cả những người ủng hộ hay phản đối Trump cũng có vấn đề, dù đó là sự thật hay nửa sự thật (half-truth) hay là “hậu sự thật” (post-truth).

Muốn hiểu và lý giải được những biến đổi chính trị đang diễn ra tại Mỹ và trên thế giới với những ẩn số và biến số khó lường (giống như biến đổi khí hậu hiện nay), người ta cần đổi mới tư duy và hệ quy chiếu (paradigm).

Nếu muốn hướng tới thế giới công nghệ 4.0 mà vẫn bám giữ vào hằng số tư tưởng 0.4 của thế giới cũ, người ta sẽ tiếp tục mắc kẹt vào tư duy nguyên trạng (status quo mindset) của trật tự thế giới cũ (không còn ý nghĩa) và lạc trong ma trận của trật tự thế giới mới vẫn chưa định hình, nên càng dễ ngộ nhận và nhầm lẫn.  

Nguyễn Quang Dy