Văn bằng nhỏ: Chuyện cũ, vấn đề mới và lớn với giáo dục Việt Nam

25/05/2023 06:38
TSKH. Phạm Đỗ Nhật Tiến
GDVN- Làm thế nào để công nhận giá trị của các văn bằng nhỏ là vấn đề không đơn giản.

Văn bằng nhỏ (micro-credential) là một khái niệm mới trong thể chế giáo dục nói chung, giáo dục đại học nói riêng.

Nó nhằm hệ thống hóa và hợp thức hóa một phạm vi rộng các loại chứng chỉ, giấy xác nhận, chứng thực khác nhau được cung cấp cho người học sau khi hoàn thành một khóa học ngắn hạn.

Nhìn ở góc độ này thì văn bằng nhỏ liên quan đến câu chuyện cũ, quen thuộc của giáo dục đại học, đặc biệt trong hoạt động giáo dục thường xuyên, cung cấp dịch vụ đào tạo, bồi dưỡng ngắn hạn cấp chứng chỉ, chứng nhận cho người học, đáp ứng nhu cầu học tập suốt đời của người học.

Tuy nhiên, vấn đề mới là ở chỗ khái niệm “văn bằng nhỏ” đem lại một giá trị mới cho các loại chứng chỉ, chứng nhận vốn được nhìn nhận ít có giá trị so với các văn bằng truyền thống trong giáo dục đại học là bằng cao đẳng, bằng đại học, bằng thạc sĩ, bằng tiến sĩ.

Giờ đây các văn bằng truyền thống này được gọi là văn bằng lớn (macro-credential), còn các chứng chỉ, chứng nhận được gọi chung là văn bằng nhỏ.

Ảnh minh hoạ, nguồn: Tienphong.vn.

Ảnh minh hoạ, nguồn: Tienphong.vn.

Cả văn bằng lớn và văn bằng nhỏ kết nối với nhau thành một hệ sinh thái văn bằng trong hệ sinh thái giáo dục, trong đó các phương thức chính quy, không chính quy và phi chính quy liên thông với nhau, được công nhận như nhau về giá trị trên cơ sở bảo đảm chất lượng.

Mong muốn là vậy, nhưng làm thế nào để công nhận giá trị của các văn bằng nhỏ là vấn đề không đơn giản.

Để giải quyết vấn đề này, đến nay giáo dục đại học thế giới đã có những bước đi quan trọng đầu tiên để xác lập vị trí và vai trò của các văn bằng nhỏ.

Hiện trạng

Việc cấp chứng chỉ cho các khóa học ngắn hạn là công việc quen thuộc của giáo dục thường xuyên nói chung, trong đào tạo thường xuyên của giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học nói riêng. Các chứng chỉ này thường được cấp bởi các cơ sở giáo dục.

Tuy nhiên, kể từ khi có sự phát triển của giáo dục mở, dưới tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đặc biệt trước các thách thức của đại dịch COVID-19, thì có sự nở rộ về nhu cầu các khóa học ngắn hạn, kèm theo đó là hai đặc trưng sau.

Thứ nhất, các nhà cung ứng các khóa học ngắn hạn không còn giới hạn ở các cơ sở giáo dục mà còn bao gồm các tổ chức nghề nghiệp, các công ty tư nhân, các doanh nghiệp, các tổ chức cộng đồng.

Thứ hai, các chứng chỉ cũng trở nên đa dạng với nhiều tên gọi mới như văn bằng số (digital badge), bằng đại học ngắn hạn (nano degree), huấn luyện cấp tốc (bootcamp), văn bằng nhỏ (micro-credential),…

Tất cả các chứng chỉ nói trên được gọi chung là văn bằng nhỏ. Lợi ích của chúng là ở chỗ vừa đáp ứng các nhu cầu học tập suốt đời của người học, vừa đáp ứng các nhu cầu thay đổi nhanh chóng về nhân lực của thị trường lao động.

Trong bối cảnh đầy thách thức ngày nay về công nghệ, kinh tế, xã hội, môi trường thì các nhu cầu trên gia tăng mạnh mẽ và tạo nên một thị trường về văn bằng nhỏ với sự tham gia của các nhà cung ứng khác nhau, cả truyền thống và phi truyền thống.

Tuy nhiên, thách thức là ở chỗ cho đến nay vẫn chưa có một cách hiểu chung về văn bằng nhỏ và giá trị của nó.

Điều này không chỉ gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong tuyển dụng mà còn khiến người học mất đi động lực trên hành trình học tập của mình.

Trong bối cảnh ngày nay khi các hệ thống giáo dục quốc dân đều đang chuyển đổi theo hướng xây dựng hệ thống giáo dục mở, linh hoạt, liên thông, học tập suốt đời thì việc làm rõ vị trí của các văn bằng nhỏ trong hệ thống văn bằng quốc gia là hết sức cần thiết.

Thế nào là văn bằng nhỏ?

Có nhiều định nghĩa khác nhau về khái niệm “văn bằng nhỏ”. Để góp phần tạo nên một nhận thức chung về khái niệm này, UNESCO đã đề xuất một cách tiếp cận và cách hiểu như sau trên cơ sở tham vấn ý kiến chuyên gia [1]:

Về cách tiếp cận, cần đặt văn bằng nhỏ trong hệ thống văn bằng nói chung. Khi đó các văn bằng (credentials) được hiểu là các văn bản có giá trị pháp lý trong việc xác minh, xác thực, xác nhận hoặc chứng thực kết quả học tập, kiến ​​thức và sự sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ của một người.

Hệ thống văn bằng này gồm hai bộ phận là các văn bằng lớn và văn bằng nhỏ.

Nói chung, các văn bằng lớn bao gồm các bằng đại học, bằng tốt nghiệp, thường được cấp bởi các cơ sở giáo dục hoặc các tổ chức cung ứng giáo dục đã được cấp phép, công nhận và kiểm định.

Các văn bằng lớn thường mất một số năm để hoàn thành và cho biết thành tích học tập của người học về một khối rộng lớn các kiến ​​thức, kỹ năng, thái độ, năng lực.

Trong khi đó, các văn bằng nhỏ thường tập trung vào một nhóm các chuẩn đầu ra cụ thể trong một lĩnh vực học tập hẹp và đạt được trong một khoảng thời gian ngắn hơn.

Các văn bằng nhỏ không chỉ được cấp bởi các cơ sở giáo dục truyền thống mà còn được cấp bởi các tổ chức thương mại, các nhà cung cấp tư nhân, các tổ chức nghề nghiệp, các tổ chức cộng đồng và các loại tổ chức khác.

Phương thức học tập cũng rất đa dạng, bên cạnh phương thức học tập truyền thống, còn là những trải nghiệm học tập đạt được ở nơi khác, chẳng hạn như tại nơi làm việc, thông qua hoạt động tình nguyện hoặc thông qua sở thích học hỏi cá nhân.

Với cách đặt văn bằng nhỏ trong hệ thống văn bằng như trên thì khác biệt duy nhất giữa văn bằng nhỏ và văn bằng lớn chỉ là ở khối lượng học tập. Vì thế, UNESCO đề xuất cách hiểu về văn bằng nhỏ như sau:

Một văn bằng nhỏ:

Là hồ sơ thành tích học tập, xác nhận những gì người học biết, hiểu và có thể làm được về một chủ đề;

Bao gồm đánh giá theo các tiêu chuẩn được quy định rõ ràng và được cấp bởi một nhà cung ứng tin cậy;

Có giá trị độc lập và cũng có thể đóng góp hoặc bổ sung cho các văn bằng lớn hoặc văn bằng nhỏ khác, bao gồm cả việc công nhận quá trình học tập trước đó;

Đáp ứng các tiêu chuẩn đảm bảo chất lượng có liên quan.

Vì thế, mẫu văn bằng nhỏ về cơ bản giống mẫu của văn bằng lớn, nghĩa là sẽ phải gồm những nội dung chủ yếu sau đây: 1) thông tin về người học; 2) thông tin về nhà cung ứng giáo dục; 3) thông tin về văn bằng nhỏ (tên gọi, ngày cấp hoặc ngày đánh giá); 4) thông tin về trải nghiệm học tập (chuẩn đầu ra, khối lượng học tập (số tín chỉ), cách đánh giá, hình thức bảo đảm chất lượng); 5) thông tin về trình độ theo Khung trình độ quốc gia; 6) hình thức học tập; 7) yêu cầu đầu vào.

Vậy là từ một chứng chỉ quen thuộc, như chúng ta vẫn biết, đến văn bằng nhỏ đã có một bước phát triển quan trọng.

Đó là sự minh bạch và tin cậy về chất lượng và giá trị thông qua 4 yêu cầu sau: 1) nhà cung ứng giáo dục phải là một tổ chức tin cậy; 2) chương trình giáo dục phải được kiểm định và công nhận; 3) việc đánh giá các chuẩn đầu ra phải trung thực, khách quan; 4) văn bằng nhỏ không chỉ có giá trị công nhận một kết quả học tập cụ thể về kiến thức, kỹ năng hoặc năng lực mà còn có giá trị tích lũy nhiều văn bằng nhỏ để tạo thành một văn bằng lớn.

Thách thức

Việc đảm bảo 4 yêu cầu nêu trên đặt ra những thách thức lớn đối với việc cấp phát văn bằng nhỏ.

Thứ nhất, các nhà cung ứng và chương trình đào tạo ngắn hạn dẫn đến văn bằng nhỏ hiện vẫn chưa là đối tượng của các hệ thống bảo đảm chất lượng.

Đây là một thực tế vì ngay ở các nước có hệ thống bảo đảm chất lượng phát triển thì thông thường đối tượng kiểm định và bảo đảm chất lượng chỉ là các cơ sở giáo dục truyền thống và các chương trình đào tạo truyền thống dẫn đến văn bằng lớn.

Vì vậy, để vượt qua thách thức này cần có sự phối hợp giữa các nhà hoạch định chính sách với các nhà cung ứng giáo dục và trung tâm bảo đảm chất lượng để công tác kiểm định và bảo đảm chất lượng bao gồm cả các nhà cung ứng và chương trình giáo dục dẫn đến văn bằng nhỏ.

Thứ hai, các văn bằng nhỏ dễ gian lận vì việc đánh giá chúng ít được quan tâm quy định chặt chẽ bởi các cơ sở giáo dục.

Vì thế việc xác thực các văn bằng nhỏ không có độ tin cậy cao như đối với các văn bằng lớn.

Đây là một thực tế ở hầu như mọi nơi trên thế giới vì bấy lâu nay các thể chế giáo dục chỉ quan tâm có những quy định chặt chẽ về đánh giá đối với việc cấp các văn bằng lớn.

Hơn nữa, giờ đây với việc phát triển mạnh mẽ những khóa học ngắn hạn thông qua e-learning, MOOC, thì càng có nhiều mối lo về gian lận văn bằng vì việc đánh giá trực tuyến chưa đạt được độ tin cậy cao so với đánh giá truyền thống theo phương thức trực tiếp.

Để vượt qua thách thức này, hiện các nhà cung ứng giáo dục đã có nhiều sáng kiến trong đổi mới đánh giá để hạn chế gian lận thi cử, bao gồm sử dụng trí tuệ nhân tạo để giám sát từ xa, thành lập các trung tâm đánh giá tin cậy, sử dụng chuỗi khối (blockchain) để xác thực kết quả học tập, kết quả đánh giá của người học.

Vì thế, về phương diện thể chế, các nhà hoạch định chính sách cần sớm hoàn thiện các quy định về đánh giá để bảo đảm rằng việc cấp phát văn bằng nhỏ cũng có độ tin cậy cao như văn bằng lớn.

Thứ ba, vì mục đích của văn bằng nhỏ chỉ là xác nhận một khối lượng nhỏ kiến thức, kỹ năng, năng lực cụ thể cho người học nên việc quy định thời gian học tập hoặc số tín chỉ là không cần thiết.

Thách thức này gắn liền với tâm lý coi nhẹ giá trị của các văn bằng nhỏ. Với việc đề cao giá trị của văn bằng nhỏ trong hệ sinh thái văn bằng thì rất cần làm rõ thời gian học tập hoặc số tín chỉ cần đạt được để có văn bằng nhỏ.

Chẳng hạn, một nghiên cứu trong phạm vi của Liên minh châu Âu chỉ ra rằng về lý thuyết một văn bằng nhỏ có thể bao gồm từ 1 đến 59 tín chỉ nhưng trên thực tế phần lớn các văn bằng nhỏ chỉ có khoảng từ 1 đến 15 tín chỉ [2].

Thứ tư, việc quy định trình độ của văn bằng nhỏ theo Khung trình độ quốc gia là không thể bởi lẽ các khung trình độ chỉ quy định chuẩn đầu ra tương ứng với các trình độ đào tạo của văn bằng lớn.

Dĩ nhiên, đối với các văn bằng nhỏ là một phần của chương trình đào tạo dẫn đến văn bằng lớn thì thách thức này không nảy sinh.

Nhưng đối với các văn bằng nhỏ độc lập thì thực sự đây là một thách thức vì các văn bằng này thường không được quan tâm gắn với một trình độ nào.

Thách thức này cần phải vượt qua để cung cấp thông tin cần thiết cho các bên liên quan về trình độ đào tạo tương ứng của văn bằng nhỏ.

Điều này được thực hiện khi các văn bằng nhỏ được đánh giá và cấp phát theo chuẩn đầu ra cùng các tín chỉ cần thiết của chương trình đào tạo.

Thứ năm, do các văn bằng nhỏ thường đáp ứng các nhu cầu riêng lẻ, thiếu hệ thống, của người học nên việc ghép nhiều văn bằng nhỏ để được công nhận đạt trình độ của một văn bằng lớn là không thể. Đúng là không phải cứ ghép nhiều văn bằng nhỏ là có được một văn bằng lớn.

Vì thế các nhà cung ứng giáo dục cần có quy định cụ thể và hướng dẫn người học trong việc tích lũy các văn bằng nhỏ để có thể được công nhận đạt trình độ của một văn bằng lớn.

Vấn đề đặt ra với Việt Nam

Về bản chất, việc công nhận và phát triển các văn bằng nhỏ là một giải pháp quan trọng trong tiến trình xây dựng hệ thống giáo dục mở, linh hoạt, liên thông, học tập suốt đời.

Điều đó đã được làm rõ trong Tuyên bố Bangkok 2022 của các bộ trưởng giáo dục khu vực châu Á-Thái Bình Dương [3], theo đó một trong các giải pháp chuyển đổi giáo dục trong những năm tới là:

Thiết lập lộ trình học tập linh hoạt với nhiều điểm nhập học trở lại hệ thống giáo dục ở mọi lứa tuổi và trình độ học vấn, cùng sự công nhận, kiểm nhận và xác nhận các phương thức giáo dục khác, đặc biệt là đối với trẻ em, thanh thiếu niên và người lớn không được đến trường; công nhận trình độ đạt được thông qua học tập trực tuyến và học tập kết hợp bằng việc cấp phát các văn bằng nhỏ và tạo cơ hội để đào tạo lại và nâng cao kỹ năng theo quan điểm học tập suốt đời.

Trong Quyết định số 1373/QĐ-TTg ngày 30/7/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án "Xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2021-2030", chúng ta cũng hướng đến xây dựng hệ thống giáo dục mở, đa dạng, linh hoạt, liên thông, hiện đại với nhiều mô hình, phương thức và trình độ đào tạo; theo đó một trong các nhiệm vụ và giải pháp là:

“Rà soát, hoàn thiện quy chế kiểm tra, đánh giá, công nhận kết quả học tập giáo dục thường xuyên; ban hành các quy định liên thông giữa giáo dục chính quy và giáo dục thường xuyên, liên thông giữa các cấp học và trình độ đào tạo”.

Trên thực tế, với sự phát triển mạnh mẽ của giáo dục thường xuyên hướng tới xây dựng xã hội học tập, đẩy mạnh học tập suốt đời, chúng ta đã cung cấp rất nhiều khóa học ngắn hạn, bao gồm các chương trình đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực nghề nghiệp; chương trình cập nhật kiến thức, kỹ năng, chuyển giao công nghệ; chương trình giáo dục đáp ứng yêu cầu của người học.

Các hình thức học tập cũng rất đa dạng, trong đó hình thức học tập trực tuyến được phát triển mạnh trong những năm gần đây.

Giờ đây, các nhà trường truyền thống đều đưa học tập trực tuyến vào xen kẽ với học tập mặt đối mặt, giúp người học có cách học linh hoạt, sinh động và hiệu quả.

Đào tạo từ xa trực tuyến cũng được nhiều cơ quan, doanh nghiệp sử dụng để bồi dưỡng, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.

Ở nước ta một thị trường đào tạo trực tuyến với những khóa học ngắn hạn đã hình thành với đối tượng là học sinh phổ thông (trong việc trau dồi kiến thức và chuẩn bị thi cử), sinh viên (trong việc nâng cao kiến thức, hoàn thiện bản thân), người lớn (trong việc học ngoại ngữ, cập nhật kiến thức, kỹ năng, nâng cao trình độ).

Tuy nhiên, thể chế văn bằng, chứng chỉ đối với các chương trình đào tạo ngắn hạn vẫn chưa có sự đổi mới phù hợp.

Luật Giáo dục cũng như Luật Giáo dục đại học, Luật Giáo dục nghề nghiệp chỉ có những quy định chung nhất về chứng chỉ; chưa có quy định về văn bằng nhỏ và càng chưa có quy định về việc chuyển từ chứng chỉ sang văn bằng nhỏ để tạo nên một hệ sinh thái văn bằng đáp ứng nhu cầu nâng cao kiến thức, kỹ năng, năng lực của người học cũng như nhu cầu tuyển dụng nhân lực của cơ quan, doanh nghiệp trong một thị trường lao động thay đổi nhanh chóng và khó lường.

Trong bối cảnh việc cấp phát, công nhận và sử dụng văn bằng nhỏ đã được phát huy ở nhiều hệ thống giáo dục trên thế giới, đặc biệt trong giáo dục đại học, thì việc chậm hoàn thiện thể chế văn bằng, chứng chỉ của Việt Nam chắc chắn sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến chủ trương xây dựng hệ thống giáo dục mở, linh hoạt, liên thông, công bằng, bình đẳng, chất lượng, hiệu quả và phục vụ học tập suốt đời, như đã được nhắc đến nhiều lần trên các văn bản của Đảng và Nhà nước.

Vì thế, việc hoàn thiện thể chế văn bằng, chứng chỉ theo hướng xây dựng những quy định về văn bằng nhỏ là cần thiết. Muốn vậy, cần tiến hành các giải pháp sau:

Tiến hành các nghiên cứu khoa học, tham khảo kinh nghiệm quốc tế, thảo luận, tranh luận rộng rãi để đi tới cách hiểu thống nhất về văn bằng nhỏ phù hợp với thực tế đào tạo ở Việt Nam;

Xây dựng và ban hành các quy định về văn bằng nhỏ trên cơ sở vận dụng kinh nghiệm quốc tế vào điều kiện cụ thể của Việt Nam;

Cùng với việc triển khai thực hiện Khung trình độ quốc gia Việt Nam đối với các trình độ của giáo dục đại học theo Quyết định số 436/QĐ-TTg ngày 30/3/2020 của Thủ tướng Chính phủ, ban hành tài liệu hướng dẫn về xây dựng chuẩn chương trình đào tạo đối với các khóa học ngắn hạn cấp văn bằng nhỏ.

Tiến tới hoàn thiện việc triển khai Khung trình độ quốc gia theo hướng không chỉ bao gồm việc xây dựng và ban hành quy định về chuẩn chương trình đào tạo đối với các khóa học truyền thống hướng đến văn bằng lớn mà còn bao gồm các chuẩn chương trình đào tạo đối với các khóa học ngắn hạn hướng đến văn bằng nhỏ;

Hoàn thiện các quy định về kiểm địnhbảo đảm chất lượng theo hướng mở rộng phạm vi kiểm định và bảo đảm chất lượng đối với các nhà cung ứng giáo dục và các chương trình đào tạo theo văn bằng nhỏ;

Xây dựng và ban hành các quy định về kiểm tra, đánh giá chuẩn đầu ra của các khóa học hướng tới văn bằng nhỏ theo các tiêu chuẩn minh bạch và phù hợp.

Việc xây dựng thể chế văn bằng nhỏ và đưa thể chế này vào đời sống đòi hỏi sự cam kết và hợp tác chặt chẽ của tất cả các bên có liên quan trong hệ sinh thái văn bằng.

Đó là các cơ quan quản lý, các nhà cung ứng giáo dục, các tổ chức bảo đảm chất lượng, các tổ chức kinh tế, các tổ chức xã hội-nghề nghiệp, các đơn vị nghiên cứu.

Trong đó, các nhà cung ứng giáo dục không chỉ giới hạn ở các cơ sở giáo dục mà còn bao gồm các doanh nghiệp, các hội và hiệp hội, các phòng thương mại, các cơ quan văn hóa, các tổ chức quốc tế.

Các cơ quan quản lý phải đi đầu trong việc tạo dựng một hành lang pháp lý đảm bảo các bên có liên quan làm việc cùng nhau vì sự phát triển của một hệ sinh thái học tập hấp dẫn, lấy người học là trung tâm, khuyến khích và hỗ trợ người học, nhất là những đối tượng thiệt thòi, đến với các chương trình đào tạo cấp văn bằng nhỏ như một lộ trình học tập linh hoạt trên hành trình học tập suốt đời.

Tài liệu tham khảo:

[1] UNESCO. 2022. Towards a common definition of micro-credentials. Paris: UNESCO

[2] Microbol. 2022. Common Framework for Micro-credentials in the EHEA.

[3] UNESCO. 2022. Bangkok Statement 2022: towards an effective learning recovery for all and transforming education in AsiaPacific. Paris: UNESCO

TSKH. Phạm Đỗ Nhật Tiến