Chỉ trong vòng hơn 1 năm qua, trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh đã có 3 trường quốc tế thông báo đóng cửa, ngừng hoạt động: Trường Quốc tế Mỹ Việt Nam; Trường Quốc tế Ngôi sao Sài Gòn; mới đây nhất là Trường Quốc tế Sài Gòn Pearl. [1]
Điều này khiến nhiều phụ huynh bày tỏ sự lo ngại trước lựa chọn đặt niềm tin vào các trường có yếu tố quốc tế.
Căn cứ khoản 1 Điều 47 Luật Giáo dục 2019, hệ thống giáo dục quốc dân ở nước ta hiện nay chỉ có 3 loại hình nhà trường, gồm: Trường công lập, trường tư thục và trường dân lập. Trong đó, loại hình dân lập chỉ áp dụng cho cơ sở giáo dục mầm non. Như vậy, không có loại hình trường quốc tế trong hệ thống giáo dục quốc dân hiện nay.
Trường "quốc tế" là cách hiểu của dư luận về cơ sở giáo dục được thành lập mà có những yếu tố nước ngoài như: Chương trình giảng dạy nước ngoài, đối tượng học là người nước ngoài, các gói dịch vụ trường cung cấp theo chuẩn nước ngoài…
Thực tế, qua khảo sát của phóng viên, số lượng trường có yếu tố quốc tế (có vốn đầu tư nước ngoài giảng dạy chương trình nước ngoài, trường tư thục có vốn đầu tư trong nước giảng dạy chương trình nước ngoài) ở thành phố lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh khá nhiều. Mức học phí dao động từ 100 triệu đồng/năm học đến gần 1 tỷ đồng/năm học. Tuy nhiên, việc thực hiện thông tin công khai theo quy định của nhiều trường không nghiêm, hời hợt.
Vì vậy, các chuyên gia cho rằng, quan trọng nhất là minh bạch thông tin trong công tác quản lý các trường có yếu tố quốc tế; thực hiện nghiêm quy định công khai, trách nhiệm giải trình với xã hội để việc giám sát hiệu quả, đồng thời cơ quan quản lý giáo dục ở địa phương cũng cần tăng cường thanh, kiểm tra liên quan việc thực hiện công khai thông tin.
Là mô hình doanh nghiệp nên trường "quốc tế" có thể phá sản hay phải đóng cửa bất cứ khi nào
Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Đại biểu Quốc hội Trương Xuân Cừ - Đoàn đại biểu Quốc hội thành phố Hà Nội cho biết: “Chúng ta đều nhận thấy rằng, những trường mang danh quốc tế khi mở ở Việt Nam, khâu quảng cáo thường được làm rất tốt, nên người dân rất tin. Đặc biệt, do một bộ phận người dân vẫn có tâm lý “sính ngoại” nên khi nghe 2 chữ “quốc tế” là ngay lập tức lựa chọn. Tuy nhiên, thời gian là chân lý, nhiều khi, kết quả thu được không như kỳ vọng…”.
Về vấn đề này, chuyên gia giáo dục độc lập Bùi Khánh Nguyên chia sẻ: “Tôi cho rằng, trước khi chọn trường giảng dạy chương trình quốc tế hoàn toàn (tức chỉ giảng dạy chương trình nước ngoài, không dạy chương trình Việt Nam theo hình thức chương trình kép), phụ huynh đã cần ý thức được những ưu điểm và hạn chế của mô hình này.
Việc chuyển từ trường Việt Nam sang trường "quốc tế" có thể dễ dàng, nhưng ở chiều ngược lại sẽ khó khăn hơn. Số lượng các trường dạng này cũng ít hơn trường dạy chương trình Việt Nam, nên nếu phải chuyển từ trường "quốc tế" này sang trường "quốc tế" khác khi gặp sự cố, cũng sẽ có ít lựa chọn hơn rất nhiều.
Do vậy, việc chọn trường để học ổn định 12 năm sẽ cần việc tìm hiểu lịch sử trường, tình trạng tài chính, cam kết của trường. Tuy nhiên, vì là mô hình doanh nghiệp nên trường "quốc tế" có thể phá sản hay phải đóng cửa bất cứ khi nào mà không có gì báo trước”.

Chia sẻ về điểm mấu chốt trong công tác quản lý các cơ sở giáo dục tư thục, có yếu tố nước ngoài, chuyên gia giáo dục Bùi Khánh Nguyên cho rằng: “Quan trọng nhất là minh bạch thông tin.
Về mặt chất lượng giáo dục, báo cáo kiểm định của các tổ chức kiểm định giáo dục sẽ rất có ý nghĩa với cơ quan quản lý, do vậy, đòi hỏi cơ quan quản lý phải yêu cầu các trường nộp báo cáo này. Nếu trường chưa được kiểm định, trường phải nộp bản tự báo cáo theo nội dung quy định. Đây là cách thức kiểm soát chất lượng của cơ quan quản lý với các trường độc lập.
Về mặt tài chính và hoạt động của đơn vị quản lý trường, báo cáo tài chính sẽ cung cấp sự minh bạch cho cộng đồng, thể hiện trách nhiệm giải trình của trường học với phụ huynh, học sinh, cơ quan quản lý”.
“Theo tôi, cơ quan quản lý đang làm đúng: Các trường dạy chương trình Việt Nam sẽ được quản lý chất lượng giống như các trường công lập. Riêng các trường dạy chương trình nước ngoài, cần có cam kết về kiểm định chất lượng. Nếu không phải là cơ quan kiểm định chất lượng nước ngoài, hoàn toàn có thể sử dụng các tổ chức kiểm định chất lượng trong nước. Một trường quốc tế không có kiểm định chất lượng tiềm ẩn rủi ro cho phụ huynh và học sinh” - vị này nhấn mạnh.
Nhìn nhận ở góc độ khác, Thạc sĩ Lưu Đức Quang - giảng viên khoa Luật, Trường Đại học Kinh tế - Luật (Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh) lại cho rằng, việc để xảy ra rủi ro đóng cửa các trường quốc tế tại Việt Nam trong thời gian qua, cũng có một phần do công tác quản lý chưa thực sự chặt chẽ.

Cụ thể, thầy Quang phân tích: “Chúng ta cần hiểu rằng, dịch vụ giáo dục là một loại dịch vụ rất đặc biệt, không chỉ liên quan đến 2 bên ký hợp đồng là nhà trường và phụ huynh, mà đối tượng sử dụng dịch vụ lại là con em (bên thứ 3). Trong trường hợp này, trẻ em là nhóm yếu thế cần được bảo vệ. Cho nên, không thể tùy tiện vì phía nhà trường hay phụ huynh mà chấm dứt hợp đồng, đẩy rủi ro về phía trẻ em.
Quyền học tập của trẻ em là một quyền hiến định, do vậy, khi giao kết hợp đồng giữa nhà trường với phụ huynh học sinh, nhà trường cần phải kèm theo những điều khoản mang tính chất ràng buộc.
Đặc biệt, không thể tùy tiện xem các đơn vị kinh doanh này chỉ là một doanh nghiệp, mà phải xem là một ngành nghề đặc biệt, bởi, liên quan đến đối tượng bên thứ 3 trong quan hệ hợp đồng (là trẻ em) - là đối tượng yếu thế, cần phải được Nhà nước bảo vệ.
Chẳng hạn, phải có phương án xử lý nếu xảy ra rủi ro như nhà trường kinh doanh phá sản. Chuyện phá sản của bất kỳ một đơn vị cung cấp dịch vụ nào cũng đều hoàn toàn có thể xảy ra, nhưng phía nhà trường phải có phương án giải quyết hậu quả của việc phá sản đó, bảo đảm quyền lợi cho người học. Không thể có chuyện để học sinh rơi vào tình huống “đứt gánh giữa đường”, kiểu “đem con bỏ chợ”. Điều này phải có cơ chế ràng buộc.
Và cơ chế này phải do Nhà nước đặt ra. Một khi Nhà nước đã đặt ra cơ chế, nếu các trường không tuân thủ, có thể sẽ phải chấm dứt dịch vụ giáo dục, giải thể.
Bởi vì, nếu Nhà nước không có quy định rõ ràng, không có cơ sở giáo dục nào chủ động thực hiện. Vì vậy, ngay từ đầu, khi một đơn vị khởi nghiệp kinh doanh về giáo dục, đơn vị đó phải tuân thủ quy định. Còn nếu trong quá trình đó, có hậu quả gì, phải có phương án giải quyết ra sao… Điều này có nghĩa, phải ràng buộc quy định trong quy chế hoạt động của các trường quốc tế”.
Cần minh bạch tài chính trường "quốc tế", hạn chế tối đa “bí mật kinh doanh” đối với lĩnh vực giáo dục
Trước những nguy cơ, rủi ro không đảm bảo về chất lượng giáo dục và quyền lợi của người học, Đại biểu Trương Xuân Cừ bày tỏ: “Vấn đề đặt ra, cách quản lý như thế nào? Đây cũng là một vấn đề rất khó. Chúng ta phải nghiên cứu để đưa ra một chính sách tốt nhất, đặc biệt là tuyên truyền cho người dân trên các phương tiện thông tin đại chúng, cổng thông tin của các cơ quan quản lý giáo dục, để người dân tìm hiểu kỹ thông tin trước khi lựa chọn trường.
Còn về góc độ quản lý, chắc chắn rằng là các nhà quản lý cũng sẽ phải nghiên cứu thêm. Chẳng hạn, cần đề xuất bổ sung quy định về vấn đề xử lý những trường hợp mà trong quá trình triển khai thực hiện, chưa đảm bảo cam kết chất lượng giáo dục”.

Theo Thạc sĩ Lưu Đức Quang, quy chế phải đi từ góc nhìn thể chế, cần phải bổ sung quy chế để đảm bảo tối đa quyền lợi cho người học.
“Trong nhiều trường hợp, có những câu chuyện vượt ra ngoài phạm trù đạo đức, mà là câu chuyện pháp lý. Bởi vậy, cần có quy định “cứng”, để chiếu theo đó mà thực hiện, đảm bảo quyền lợi của người học - đối tượng sử dụng dịch vụ giáo dục” - vị này lý giải.
Thầy Quang bày tỏ quan điểm: “Các trường "quốc tế" phải giống như hệ thống ngân hàng, ngay từ đầu, phải có phương án dự phòng cho tất cả các trường hợp. Và phải có mức độ tối thiểu để chia sẻ rủi ro, hạn chế tối đa nguy cơ phá sản. Tức là, trong hệ thống các trường "quốc tế" này, mặc dù có sự cạnh tranh, nhưng vẫn phải có sự liên kết vì lợi ích chung.
Kinh doanh trong lĩnh vực giáo dục, phải chấp nhận coi đó như một phương án hạn chế rủi ro, nhằm giữ sự ổn định của hệ thống, phải chia sẻ chi phí để xử lý rủi ro, ngăn ngừa khủng hoảng. Tất cả những chuyện đó, không thể chỉ kêu gọi trên góc độ đạo lý, mà phải bằng góc độ pháp lý”.
Bên cạnh đó, vị này cũng chỉ ra, việc một số trường "quốc tế" đột ngột tuyên bố đóng cửa, mặc dù hứa hẹn sẽ giới thiệu, chuyển học sinh qua học tại sơ sở giáo dục khác, nhưng về mặt thời điểm lại không phù hợp. Bởi khi đó, phụ huynh học sinh ở “thế đã rồi”, nếu trường đang theo học đóng cửa, chỉ còn cách đi học ở trường được giới thiệu, song, có thể gặp nhiều bất cập về chênh lệch học phí hoặc điều kiện đưa đón sẽ khó khăn hơn…
Chính vì vậy, Thạc sĩ Lưu Đức Quang cho rằng, phụ huynh phải được thông tin đầy đủ về việc này từ trước khi quyết định cho con em vào trường học: “Thứ nhất, thông tin về nguồn lực của cơ sở giáo dục phải minh bạch, phụ huynh có quyền lựa chọn.
Thứ hai, cần công khai “sức khỏe” tài chính, chất lượng chuyên môn…, tất cả điều kiện thực tế của ngôi trường phải được công khai theo đúng quy định, nếu có sai sót, người đứng đầu cơ sở đó phải chịu trách nhiệm.
Thứ ba, về giải quyết và xử lý rủi ro. Đầu tiên, việc giải quyết chỗ học cho người học khi xảy ra sự cố, phải được tính tới ngay từ khi mở trường. Ví dụ, nếu nhà trường không thể tiếp tục cung cấp được dịch vụ giáo dục, thì phải có phương án rõ ràng, đảm bảo quyền lợi cho học sinh.
Đặc biệt, để ngăn những tiêu cực có thể xảy ra, Nhà nước phải lập ra một “sàn giao dịch”, để các đơn vị kinh doanh khi tham gia vào hệ thống giáo dục có yếu tố quốc tế, đều phải công khai thông tin trên đó, hạn chế tối đa “bí mật kinh doanh” đối với lĩnh vực giáo dục. Các thông tin này sau khi được công khai trên “sàn”, Nhà nước sẽ quản lý, nhưng xã hội cũng có quyền giám sát.
Về điều này, Nhà nước phải có quy định “khung”, các cơ sở giáo dục muốn tự do hoạt động, cũng chỉ được tự do trong khuôn khổ ấy. Tức là, Nhà nước phải đưa ra “ngưỡng sàn” về điều kiện tối thiểu để cho phép hoạt động, các cơ sở giáo dục nếu đáp ứng được, thì mới được phép cung cấp dịch vụ giáo dục. Nếu không tuân thủ, cần phải xử lý nghiêm”.
Tài liệu tham khảo:
[1] https://giaoduc.net.vn/tphcm-trong-hon-nam-3-truong-co-ten-gan-chu-quoc-te-thong-bao-dung-hoat-dong-post249264.gd