Mỗi đại học tư thục có nhà đầu tư riêng: Sắp xếp sao cho hiệu quả?

12/11/2025 06:28
Thanh Trà

GDVN - Chủ trương sắp xếp cơ sở giáo dục đại học là cần thiết, song với khối trường tư, cần cơ chế và hỗ trợ phù hợp do đặc thù có nhà đầu tư riêng.

Thực hiện nhiệm vụ tại Nghị quyết 71-NQ/TW năm 2025 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo, Bộ Giáo dục và Đào tạo được giao xây dựng Đề án sắp xếp, tổ chức lại hệ thống cơ sở giáo dục đại học và Đề án chuyển một số cơ sở giáo dục đại học về địa phương quản lý trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định trong năm 2026.

Phát biểu tại Hội nghị học tập, triển khai Nghị quyết số 71-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Kim Sơn nhấn mạnh, việc sắp xếp các cơ sở giáo dục trong hệ thống, từ giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp đến giáo dục phổ thông, là một nhiệm vụ quan trọng trong thời gian tới.

Trong đó, những cơ sở giáo dục manh mún, quy mô nhỏ, khó tuyển sinh, không bảo đảm chất lượng, dù là công lập hay tư thục, đều sẽ là đối tượng được xem xét đầu tiên trong quá trình sắp xếp.

Chủ trương đúng đắn nhưng cần nhìn vào thực tế khối trường tư

Trước thông tin này, trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Tiến sĩ Trần Mạnh Hà - Hiệu trưởng Trường Đại học Công nghiệp Vinh (phường Thành Vinh, tỉnh Nghệ An) cho rằng, chủ trương sắp xếp, tinh gọn hệ thống cơ sở giáo dục đại học mà Chính phủ và Bộ Giáo dục và Đào tạo triển khai là đúng đắn và cần thiết.

Theo thầy Hà, mục tiêu của việc sắp xếp là để phát huy tốt hơn các nguồn lực, tăng hiệu quả đầu tư và nâng cao chất lượng giáo dục đại học. Tuy nhiên, việc triển khai cần phải phù hợp với điều kiện thực tế của hệ thống hiện nay, đặc biệt là khi giữa các nhóm trường công lập và tư thục đang tồn tại sự khác biệt rất lớn về quy mô, nguồn lực và cơ chế hoạt động.

imagesthumb2e19444b-f101-415a-bfde-f4e9e3c2c24c.jpg
Tiến sĩ Trần Mạnh Hà - Hiệu trưởng Trường Đại học Công nghiệp Vinh. Ảnh: Website Trường.

“Hiện nay số lượng trường đại học ở nước ta tương đối nhiều, trong đó có cả trường công, trường tư, trường mạnh, trường yếu. Sức cạnh tranh giữa các trường ngày càng phân hóa rõ rệt. Các trường lớn có lợi thế về thương hiệu, cơ sở vật chất, đội ngũ nên ngày càng phát triển; trong khi đó các trường nhỏ, vốn gặp khó khăn trong tuyển sinh và duy trì hoạt động sẽ lại càng khó khăn”, thầy Hà nhận định.

Vị hiệu trưởng cho rằng, việc sáp nhập đối với khối tư thục gần như không khả thi, bởi các trường này có pháp nhân độc lập và chủ đầu tư khác nhau.

Với trường công lập, việc sáp nhập có thể thực hiện giữa các trường trong cùng hệ thống quản lý, cùng Bộ chủ quản, cùng lĩnh vực. Nhưng với trường tư, mỗi trường lại có cơ chế tài chính và nhà đầu tư riêng, nên gần như không thể gộp lại và đứng dưới một nhà đầu tư được.

Tiến sĩ Trần Mạnh Hà đồng tình với việc sắp xếp những đơn vị không đảm bảo chất lượng, khó tuyển sinh là cần thiết. Tuy nhiên thầy lưu ý, tiêu chí “quy mô nhỏ” cần được cân nhắc kỹ lưỡng và linh hoạt.

“Có những trường quy mô tuyển sinh nhỏ nhưng hoạt động tốt, đảm bảo chất lượng đào tạo, cơ sở vật chất và đội ngũ giảng viên đầy đủ. Nếu chỉ vì trường tuyển sinh số lượng ít, hay có không nhiều ngành đào tạo mà xếp vào diện sắp xếp thì không hợp lý, nhất là đối với trường tư,” thầy Hà phân tích.

Theo thầy Hà, nhiều trường tư hiện nay duy trì quy mô gọn là có chủ đích, để tập trung đào tạo, kiểm soát chất lượng và phù hợp với năng lực tài chính. Quan trọng là trường có đảm bảo các điều kiện quản lý nhà nước, cơ sở vật chất, chất lượng đào tạo hay không.

Đồng tình với ý kiến trên, Tiến sĩ Đỗ Trọng Tuấn - Phó Hiệu trưởng thường trực Trường Đại học Đông Á (phường Hòa Cường, thành phố Đà Nẵng) cho rằng, chủ trương sắp xếp hệ thống giáo dục đại học rất cần thiết, là hướng đi hợp lý vì hiện nay có quá nhiều trường đại học hoạt động nhỏ lẻ, dàn trải, dẫn đến hiệu quả thấp và lãng phí nguồn lực.

Theo thầy Tuấn, thực tế cho thấy nhiều địa phương có các trường đại học quy mô nhỏ, tuyển sinh yếu, trong khi sinh viên lại có xu hướng chọn học ở các thành phố lớn. Có những nơi sinh viên phải đi học xa hàng trăm cây số, nhưng tại địa phương lại mọc ra nhiều trường mà không tuyển được người học. Đầu tư như vậy dù nhỏ cũng thành lãng phí.

Từ đó, thầy cho rằng việc sắp xếp, hợp nhất các cơ sở giáo dục đại học ở những vùng có quy mô nhỏ và hiệu quả hoạt động thấp là cần thiết, nhằm tập trung nguồn lực để hình thành các trường đại học đủ mạnh, có khả năng cạnh tranh trong nước và quốc tế.

Tuy nhiên, theo vị phó hiệu trưởng Trường Đại học Đông Á, vấn đề “quy mô nhỏ” không nên được hiểu theo nghĩa máy móc. Có những trường cố tình giữ quy mô nhỏ để tập trung vào chất lượng. Điểm chuẩn đầu vào cao, chọn lọc, đó là định hướng chiến lược của trường, không thể xem là yếu kém. Nếu chỉ nhìn vào số lượng sinh viên mà đánh giá thì sẽ rất thiếu sót. Theo Tiến sĩ Đỗ Trọng Tuấn, điều cần nhìn nhận là bản chất của “quy mô nhỏ”: nhỏ vì không tuyển được hay nhỏ vì chủ trương phát triển theo chiều sâu.

“Nếu trường đặt điểm sàn cao, tuyển sinh ít nhưng chất lượng tốt, đó là mô hình đáng khuyến khích. Còn nếu trường đã hạ điểm sàn đến mức thấp mà vẫn không tuyển được, không đảm bảo chất lượng thì lúc đó mới cần xem xét sắp xếp,” thầy Tuấn phân tích.

Ngoài ra, thầy Tuấn cho biết hiện cơ chế pháp lý cho việc sáp nhập giữa các trường đại học, đặc biệt là khối tư thục vẫn chưa rõ ràng. Việc “gom lại” nếu không có quy chế thống nhất về đầu tư, quản lý, quyền lợi giữa các bên thì sẽ dễ phát sinh mâu thuẫn, cạnh tranh và ảnh hưởng đến hoạt động của nhà trường.

“Khi chưa có một quy chế hợp tác rõ ràng, việc sáp nhập có thể gây ra xung đột giữa các nhà đầu tư. Mỗi trường tư đều có cổ đông, có cơ chế riêng. Nếu hợp nhất mà không có khung pháp lý chặt chẽ thì sẽ nảy sinh nhiều hệ lụy,” thầy Tuấn nhận định.

Cần cơ chế hỗ trợ và lộ trình phù hợp để trường tư thục phát triển bền vững

Đề cập đến giải pháp cho quá trình sắp xếp hệ thống giáo dục đại học, đặc biệt với các trường đại học tư, Tiến sĩ Đỗ Trọng Tuấn cho rằng, điều quan trọng nhất là phải xây dựng được cơ chế rõ ràng và thống nhất.

“Nếu có quy chế hợp tác minh bạch, trong đó các nhà đầu tư có thể trở thành cổ đông khi các trường tư sáp nhập, đồng thời có cơ chế quản lý đủ mạnh để tránh mâu thuẫn nội bộ thì việc hợp nhất mới có thể thực hiện được,” thầy Tuấn nêu quan điểm.

image-8.jpg
Tiến sĩ Đỗ Trọng Tuấn - Phó Hiệu trưởng thường trực Trường Đại học Đông Á. Ảnh: NTCC.

Theo thầy, nhiều trường tư hiện nay vốn đã có nhiều cổ đông tham gia. Vì vậy, nếu Nhà nước xây dựng được cơ chế để các trường có thể ‘gom’ lại thành một trường đại học mạnh hơn, hoạt động như mô hình nhiều cổ đông (là các tập đoàn) trong cùng một hệ thống thì đây sẽ là hướng đi hợp lý, tạo ra sức mạnh tổng hợp thay vì để mỗi trường tồn tại riêng lẻ, manh mún.

“Quan trọng là Nhà nước phải làm rõ cơ chế quản trị, phân quyền, lợi ích và trách nhiệm giữa các bên để tránh xung đột. Khi các điều kiện đó được đảm bảo, việc sáp nhập sẽ không còn là nỗi lo, mà là cơ hội để các trường tư mạnh lên,” thầy nói thêm.

Ngoài cơ chế quản trị, Tiến sĩ Đỗ Trọng Tuấn cũng đặc biệt nhấn mạnh đến hai yếu tố then chốt: đất đai và tài chính, vốn là điểm yếu cố hữu của khối trường tư hiện nay.

Theo quy định, để đạt chuẩn theo Thông tư 01/2024/TT-BGDĐT, các trường đại học phải đảm bảo diện tích đất tối thiểu tính theo đầu sinh viên. Tuy nhiên, đối với trường công lập, việc này thường được Nhà nước hỗ trợ giao hoặc cho thuê đất; còn trường tư thì phải hoàn toàn tự chủ.

“Không phải nhà đầu tư nào cũng có thể nhanh chóng huy động nguồn lực để mở rộng diện tích đất đai. Trong khi số lượng sinh viên tăng thì yêu cầu về đất lại phải tăng theo. Nếu không có chính sách hỗ trợ, trường tư sẽ rất khó đạt chuẩn”, thầy Tuấn phân tích.

Thầy Tuấn kiến nghị, Nhà nước nên có chính sách hỗ trợ hợp lý về mặt bằng, chẳng hạn như ưu tiên quỹ đất hoặc cho thuê đất với chi phí thấp để đảm bảo sự công bằng giữa công lập và tư thục. Bên cạnh đó, thầy cũng đề xuất cơ chế tài chính ưu đãi cho trường tư như cho vay lãi suất thấp hoặc hỗ trợ vốn đầu tư ban đầu, đặc biệt đối với các trường đang trong quá trình mở rộng quy mô, nâng chuẩn.

“Nếu được vay ưu đãi từ các quỹ phát triển địa phương hay nguồn vốn tỉnh/thành phố, các trường tư sẽ có điều kiện đầu tư cơ sở vật chất, cải thiện chất lượng đào tạo, tạo thêm việc làm cho giảng viên và người lao động.

Và trên hết, muốn trường tư phát triển bền vững sau khi sắp xếp phải có một cơ chế quản lý nội bộ thống nhất, minh bạch và đủ mạnh để các cổ đông, nhà đầu tư có thể hợp tác lâu dài, không xung đột lợi ích.

“Chính sự ổn định về cơ chế quản trị sẽ là nền tảng để trường tư phát triển. Nếu có khung pháp lý đủ rõ, có chính sách đất đai, tài chính và cơ chế hợp tác linh hoạt, khối trường tư sẽ không yếu đi trong quá trình sắp xếp mà ngược lại sẽ mạnh lên, đóng góp tích cực cho giáo dục đại học Việt Nam", thầy Tuấn khẳng định.

Về phía Tiến sĩ Trần Mạnh Hà, thầy cũng bày tỏ trước khi thực hiện việc sắp xếp, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ cụ thể để giúp các trường tư có thời gian chuẩn bị, nâng chuẩn và mở rộng quy mô một cách bền vững.

“Nếu có được các chính sách hỗ trợ, ví dụ như cho thêm thời gian hoặc cơ chế cởi mở hơn cho khối trường tư thì rất tốt. Như vậy, các trường sẽ có điều kiện đầu tư bài bản, từng bước đáp ứng các tiêu chuẩn theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Thay vì sáp nhập cứng nhắc, Bộ Giáo dục và Đào tạo có thể đứng ra chủ trì, sắp xếp mô hình hợp tác giữa các trường tư. Ví dụ một trường tư có quy mô lớn, tiềm lực mạnh có thể hỗ trợ hoặc “đỡ đầu” cho một trường tư nhỏ hơn, qua đó giúp chia sẻ nguồn lực, đội ngũ, thậm chí hình thành các mối liên kết như “đại học thành viên” trong cùng một hệ sinh thái.

Ngoài ra, Bộ Giáo dục và Đào tạo có thể nghiên cứu cơ chế để một trường đại học tư nhỏ trở thành đơn vị thành viên của một đại học tư thục lớn, tương tự mô hình các đại học công lập hiện nay. Khi đó, các chủ đầu tư có thể ngồi lại với nhau, góp vốn theo hình thức cổ đông lớn - nhỏ. Cách làm này sẽ giúp tập trung nguồn lực, tránh lãng phí, đồng thời giúp các trường nhỏ có cơ hội phát triển trong hệ thống chung,” thầy Hà gợi ý.

Tiến sĩ Trần Mạnh Hà cũng cho biết, Trường Đại học Công nghiệp Vinh từng là cơ sở Nghệ An của một trường đại học khác, sau đó được thành lập thành đơn vị độc lập. Từ thực tế đó, thầy Hà cho rằng, nếu Nhà nước mở cơ chế cho phép trường tư được trở thành đơn vị thành viên của trường công lập cũng sẽ tạo ra mô hình hợp tác rất tiềm năng.

Khi đó, trường tư có quy mô nhỏ sẽ được hưởng lợi về thương hiệu, đội ngũ và cơ sở vật chất từ trường công; còn trường công có thể mở rộng ảnh hưởng và huy động thêm nguồn lực xã hội hóa. Đó là cách làm giúp cả hai bên cùng mạnh lên, phù hợp với tinh thần chủ trương của Bộ là để các cơ sở giáo dục phát triển hiệu quả hơn.

Theo thầy, mục tiêu của việc sắp xếp không phải là loại bỏ mà là để hệ thống đại học Việt Nam phát triển bền vững, nâng cao chất lượng và tối ưu hóa nguồn lực. Vì vậy, chính sách cần phân biệt rõ giữa “manh mún, yếu kém” với “quy mô nhỏ nhưng chất lượng”.

“Nếu chúng ta có cái nhìn linh hoạt, hỗ trợ đúng chỗ, khối trường tư sẽ thực sự mạnh lên, góp phần quan trọng vào nâng cao chất lượng giáo dục đại học Việt Nam,” Tiến sĩ Trần Mạnh Hà nhấn mạnh.

Thanh Trà