Sắp xếp mạng lưới trường lớp: Nhìn từ cơ sở khoa học và kinh nghiệm quốc tế về quy mô, sĩ số

14/11/2025 08:59
Mộc Trà

GDVN-Sắp xếp mạng lưới trường lớp các địa phương có thể tham khảo cơ sở khoa học, kinh nghiệm quốc tế về quy mô trường, lớp, ngưỡng sĩ số.

Ngày 12/11, Đảng ủy Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có văn bản số 131-CV/ĐU gửi Thường trực Tỉnh ủy các tỉnh/thành phố về công tác sắp xếp tổ chức các cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông, giáo dục thường xuyên.

Theo đó, để bảo đảm ổn định hệ thống, thực hiện nghiêm chỉ đạo của Trung ương và đúng quy định hiện hành, Ban Thường vụ Đảng ủy Bộ Giáo dục và Đào tạo đề nghị Thường trực Tỉnh ủy các tỉnh/thành phố quan tâm chỉ đạo tập trung chỉ đạo thực hiện đúng quan điểm chỉ đạo của Ban Chỉ đạo Trung ương tại Kế hoạch số 130 Kế hoạch số 130/KH-BCĐTKNQ18 ngày 21/9/2025 của Ban Chỉ đạo Trung ương về tổng kết thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW và các văn bản chỉ đạo của Trung ương về sắp xếp đơn vị sự nghiệp công lập trong lĩnh vực giáo dục: "cơ bản giữ nguyên các trường trung học phổ thông, trung học cơ sở, tiểu học, các trường liên cấp và mầm non công lập hiện có; chỉ đề xuất sắp xếp, điều chỉnh khi thật sự cần thiết theo hướng thuận tiện, phục vụ nhu cầu của người dân và học sinh".

Bên cạnh đó, rà soát, sắp xếp các điểm trường lẻ theo lộ trình phù hợp, tập trung hình thành, duy trì, phát triển các mô hình trường dân tộc nội trú, bán trú cho học sinh tại trung tâm xã hoặc liên xã; ưu tiên bảo đảm điều kiện đi lại an toàn, khoảng cách hợp lý, không làm gia tăng chi phí và rủi ro cho học sinh, đặc biệt ở vùng khó khăn, biên giới, hải đảo;

Ban Thường vụ Đảng ủy Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đề nghị Thường trực tỉnh ủy các tỉnh/thành phố chỉ đạo đánh giá toàn diện các phương án sắp xếp để xây dựng lộ trình thực hiện phù hợp hoặc phương án điều chỉnh, bảo đảm tính khả thi, ổn định, không gây xáo trộn hoạt động dạy học; tạm dừng triển khai đối với các phương án, cơ sở giáo dục công lập vượt quy mô, chưa bảo đảm điều kiện tối thiểu cho đến khi có đánh giá tác động đầy đủ.

Việc sắp xếp phải tuân thủ quy định về quy mô trường, lớp; đội ngũ và định mức giáo viên; cơ sở vật chất, quỹ đất, mật độ dân cư và điều kiện địa lý; tuyệt đối không làm ảnh hưởng đến quyền học tập của học sinh.

Để có thêm góc nhìn liên quan đến vấn đề này, Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam giới thiệu một số căn cứ về cơ sở khoa học và thực tiễn của việc duy trì mạng lưới trường học cấp xã và đảm bảo quy mô lớp học, sĩ số học sinh ở Việt Nam hiện nay.

chung-mot-quyet-tam.png

Cơ sở khoa học về quy mô trường, lớp và ngưỡng sĩ số

Về cơ sở khoa học sư phạm tổ chức số học sinh trong lớp học: Theo quan điểm của sư phạm hiện đại, lớp học là đơn vị cơ bản của quá trình dạy học, trong đó quy mô và cơ cấu lớp ảnh hưởng trực tiếp đến mức độ tương tác thầy - trò, động lực học tập và khả năng cá thể hóa nội dung giảng dạy.

Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) ghi nhận trong báo cáo Education at a Glance năm 2024 rằng, sĩ số trung bình tại cấp tiểu học của các nước thành viên là 21 học sinh/lớp, trung học cơ sở là 23 học sinh/lớp, với tỉ lệ học sinh/giáo viên khoảng 14. Kết quả nghiên cứu thực nghiệm Project STAR tại Hoa Kỳ cũng chứng minh rằng, học sinh tiểu học học trong lớp nhỏ (13-17 học sinh) đạt điểm trung bình cao hơn 0,2-0,3 độ lệch chuẩn so với lớp đông hơn và hiệu quả tích lũy kéo dài đến cấp trung học cơ sở.

Cơ sở khoa học về quản lý và tổ chức số lớp học trong trường học chỉ ra: Theo lý thuyết hệ thống trong quản lý giáo dục (Systems Theory in Education), trường học là một hệ thống mở gồm các yếu tố: mục tiêu - con người - nguồn lực - quy trình - kết quả. Trong đó, quy mô trường và lớp quyết định mức độ tối ưu hóa phân bổ nguồn lực (giáo viên, phòng học, cơ sở vật chất) và hiệu suất quản lý.

Về cơ sở khoa học xác định khoảng cách địa lý giữa nơi cư trú của học sinh và trường học: Lý thuyết tiếp cận công bằng giáo dục khẳng định khoảng cách địa lý từ nơi cư trú đến trường học là một yếu tố cấu thành cơ hội tiếp cận giáo dục. Khi khoảng cách vượt quá ngưỡng hợp lý, chi phí thời gian và di chuyển tăng lên, làm giảm khả năng duy trì việc học, đặc biệt với học sinh vùng nông thôn, miền núi, hải đảo.

Bên cạnh đó, tâm lý học học sinh chỉ ra rằng, học sinh tiểu học và trung học cơ sở có khả năng tự di chuyển hạn chế, phụ thuộc vào người lớn. Khoảng cách quá xa làm tăng căng thẳng, mệt mỏi, ảnh hưởng tới sức khỏe và khả năng tập trung học tập.

Các nghiên cứu xã hội học giáo dục chứng minh: Học sinh đi học xa (trên 3km ở tiểu học, trên 5km ở trung học cơ sở) có tỉ lệ đi học muộn và nghỉ học cao hơn 1,5-2 lần; Học sinh vùng sâu, vùng khó khăn thường phải đi bộ hoặc di chuyển bằng phương tiện không an toàn, ảnh hưởng đến bình đẳng giới (nữ sinh bỏ học cao hơn 15-20%). Các nghiên cứu phát triển con người của UNESCO và UNICEF đều khẳng định ở lứa tuổi tiểu học và trung học cơ sở, yếu tố khoảng cách địa lý có tác động rất lớn đến tỉ lệ đến lớp và duy trì học tập.

Ở các nước phát triển, nguyên tắc “trường gần nhà” được coi là một tiêu chuẩn quyền trẻ em. Khi trẻ phải đi học xa trên 3-5km, đặc biệt ở vùng núi, khả năng nghỉ học giữa chừng tăng gấp 2-3 lần, trong đó, nhóm học sinh nữ chịu ảnh hưởng nhiều hơn.

Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam ở góc độ tâm lý học học sinh, Tiến sĩ Đỗ Nghiêm Thanh Phương - Trưởng bộ môn Công tác xã hội trẻ em và gia đình (Khoa Công tác xã hội, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội) chia sẻ: “Các nghiên cứu phát triển con người của UNESCO và UNICEF cũng đều khuyến cáo khoảng cách tối đa mà trẻ có thể đi bộ hoặc di chuyển bằng phương tiện đến trường một cách an toàn. Điều đó là căn cứ dựa trên đánh giá về sự phù hợp đối với thể lực của học sinh cũng như khả năng tự bảo vệ trước những rủi ro có thể xảy ra trên quãng đường từ nhà đến trường như tai nạn, bắt cóc...”.

z7220534893329-35ba9d871b053bdcdb17e242f1758ab3.jpg
Tiến sĩ Đỗ Nghiêm Thanh Phương - Trưởng bộ môn Công tác xã hội trẻ em và gia đình (Khoa Công tác xã hội, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội). Ảnh: NVCC.

Bên cạnh đó, Tiến sĩ Đỗ Nghiêm Thanh Phương cũng chỉ ra một số khó khăn, ảnh hưởng khi xảy ra tình trạng sĩ số học sinh/lớp quá đông: “Thứ nhất, sĩ số lớp sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến việc quản lý học sinh của giáo viên, nên nếu lớp đông quá, việc bao quát lớp của giáo viên sẽ gặp nhiều khó khăn hơn, có thể dẫn đến một số em không được quan tâm đầy đủ.

Thứ hai, ảnh hưởng đến thời gian hỗ trợ của giáo viên đối với toàn bộ học sinh trong lớp, sẽ khó có sự đồng đều. Tức là, giáo viên có thể gặp khó khăn trong việc hỗ trợ với từng cá nhân hay hỗ trợ nhóm học sinh.

Thứ ba, có thể ảnh hưởng đến vấn đề về tương tác - giao tiếp trực tiếp với giáo viên. Tâm lý học phát triển lứa tuổi chỉ ra rằng học sinh tiểu học và trung học cơ sở có nhu cầu cao về tương tác cá nhân hóa với giáo viên để hình thành năng lực tự học, kỹ năng xã hội và kiểm soát hành vi. Tuy nhiên, nếu lớp quá đông, giáo viên đôi khi không thể giải đáp hết tất cả những câu hỏi của học sinh.

Thứ tư, khi lớp quá đông, sự tham gia vào các hoạt động của mỗi học sinh trong lớp sẽ không đồng đều. Chẳng hạn, khi giáo viên phân nhóm quá đông thành viên, hoặc chia lớp thành quá nhiều nhóm, mỗi thành viên trong nhóm có thể sẽ không có nhiều cơ hội để trực tiếp tham gia hoạt động, dẫn đến một số em sẽ có thể bị loại khỏi quá trình học tập. Mặt khác, liên quan đến sức khỏe, vấn đề sức khỏe tâm thần, quan hệ giao tiếp giữa học sinh với học sinh. Khi lớp quá đông, có thể có những em sẽ không có cơ hội trao đổi, giao tiếp với nhau.

Thứ năm, khi lớp quá đông, sẽ dẫn đến bầu không khí lớp học có thể trở nên ồn ào hơn, đặc biệt, đối với trẻ em, rất dễ bị xao nhãng, khó tập trung học tập”.

Chính vì vậy, theo Tiến sĩ Đỗ Nghiêm Thanh Phương, các cơ sở giáo dục cần tuân thủ các quy định hiện hành của Bộ Giáo dục và Đào tạo, để đảm bảo chất lượng giáo dục. Bài học kinh nghiệm để các địa phương xây dựng phương án sáp nhập phù hợp, cố gắng duy trì sĩ số ổn định theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Với những nơi đã thực hiện sáp nhập xong và không thể giảm được sĩ số, cần có các giải pháp khắc phục về giáo viên, cơ sở vật chất, để cải thiện chất lượng.

Kinh nghiệm quốc tế về quy mô trường, lớp và ngưỡng sĩ số

Đối với kinh nghiệm về mức sĩ số lớp học ở các quốc gia Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD): Trung bình tại cấp tiểu học ở các nước OECD là khoảng 21 học sinh/lớp; Ở cấp trung học cơ sở, trung bình khoảng 23 học sinh/lớp, nhưng có nước vượt hơn 30 học sinh/lớp (như ở Nhật Bản, Hàn Quốc) và có nước chỉ khoảng 19 học sinh/lớp hoặc ít hơn (như Estonia, Iceland…); Có quốc gia vẫn duy trì sĩ số lớn hơn 30 học sinh/lớp ở cấp tiểu học, trung học cơ sở, điển hình như Chile, Trung Quốc.

Không có “con số chung” áp dụng cho mọi quốc gia - điều kiện vùng miền, hạ tầng và nguồn lực ảnh hưởng lớn. Việc duy trì sĩ số thấp hơn trung bình OECD được xem là một trong các yếu tố hỗ trợ nâng cao chất lượng giáo dục.

Đối với kinh nghiệm về quy mô số lượng lớp học trong trường học:

Tại Singapore, các trường tiểu học trung bình 30 lớp học, với khoảng 1.000-1.200 học sinh/trường; trung học cơ sở và trung học phổ thông có 24-36 lớp học, 900-1.200 học sinh/trường. Chính phủ áp dụng mô hình cụm trường để chia sẻ nguồn lực, giáo viên, cơ sở vật chất giữa 3-5 trường lân cận. Mỗi trường có phòng học bộ môn, khu STEM, trung tâm hướng nghiệp và khu thể thao riêng, bảo đảm toàn diện nhưng không quá quy mô lớn.

Tại Anh, các trường tiểu học trung bình có 21 lớp học, khoảng 500 học sinh/trường; trung học cơ sở khoảng 700-900 học sinh, tương đương 30 lớp học. Vương quốc Anh đặc biệt chú trọng quy mô “vừa phải”, coi 24-36 lớp/trường là mức tối ưu để đảm bảo tính cộng đồng và hiệu quả quản lý.

Còn tại Hoa Kỳ, quy mô trung bình của trường phổ thông là 526 học sinh ở tiểu học và 850 học sinh ở trung học cơ sở/trung học phổ thông; có hệ thống quản trị linh hoạt theo từng bang, cho phép chia nhỏ trường quá đông

Hàn Quốc tổ chức cụm trường học từ 3 đến 5 trường trong cùng địa bàn hành chính sử dụng chung phòng học bộ môn, nhà thi đấu, thư viện và hệ thống công nghệ thông tin. Số lớp trong từng trường được điều chỉnh hằng năm theo biến động số lượng học sinh.

Chính phủ trung ương cấp ngân sách đầu tư dựa trên số lớp học, không dựa trên tổng số học sinh, nhằm khuyến khích duy trì quy mô hợp lý, tránh tình trạng lớp học quá đông.

Tại các đô thị lớn như Seoul, Busan: trung bình 32-36 lớp/trường trung học phổ thông, với 1.000-1.200 học sinh, tại vùng nông thôn, số lớp có thể chỉ 12-18 lớp/trường, và được hỗ trợ thêm mô hình trường liên cấp.

Trung Quốc, trường quy mô lớn ở đô thị là mô hình phổ biến ở Bắc Kinh, Thượng Hải, Quảng Châu, Thâm Quyến, có từ 48-60 lớp, 2.000-3.000 học sinh, chia thành nhiều “phân khu học tập”, mỗi “phân khu” quản lý khoảng 12-15 lớp với ban giám hiệu và bộ phận quản sinh riêng, tạo cơ chế quản trị “trường trong trường”.

Mô hình này có ưu điểm là tận dụng nguồn lực, cơ sở vật chất hiện đại, thuận tiện quy hoạch đô thị. Song, cũng có những hạn chế nhất định như: thiếu tương tác cá nhân, áp lực học tập cao, tỉ lệ giáo viên/học sinh thấp hơn tiêu chuẩn OECD.

Bên cạnh đó, còn có hệ thống trường quy mô nhỏ ở nông thôn. Trung Quốc đã sáp nhập hơn 300.000 “điểm trường lẻ” giai đoạn 2001-2020, nhưng đồng thời mở trường nội trú và bán trú để hỗ trợ học sinh vùng núi. Các trường này trung bình dưới 18 lớp, mỗi lớp 20-25 học sinh, được đầu tư công nghệ học trực tuyến.

Đối với kinh nghiệm quốc tế về xác định khoảng cách địa lý giữa nơi cư trú của học sinh và trường học:

Tại Pháp, mỗi xã phải có tối thiểu một trường tiểu học công lập; các thôn/bản tách khỏi trung tâm từ 3 km trở lên và có từ 15 trẻ trong độ tuổi cũng phải được bảo đảm cơ sở tiểu học. Đây là chuẩn quy hoạch đảm bảo tiếp cận gần ở bậc tiểu học.

Tại Úc, chính sách quy định ngưỡng khoảng cách nơi ở - trường gần nhất để xét trợ cấp/đi lại: tiểu học (khoảng cách trên 3,2km), trung học cơ sở/trung học phổ thông (khoảng cách trên 4,8km). Khảo sát toàn quốc cho thấy, khoảng 70% trẻ sống dưới 5km tới trường; 52% học sinh tiểu học sống cách dưới 2km (nhưng vẫn ít tự đi nếu không có người lớn).

Còn tại Trung Quốc, Nhà nước yêu cầu bố trí trường trong “khoảng cách thuận tiện” với nơi ở học sinh, giao địa phương quy hoạch theo điều kiện thực tế (không ấn định chung một con số km cho toàn quốc).

Thực tế đô thị (Bắc Kinh): nghiên cứu dựa trên dữ liệu thẻ xe buýt cho thấy tỉ lệ đáng kể học sinh tiểu học đi quá 5km tới trường; chỉ khoảng 8,9% trong vòng 3km đổ lại.

Trong khi đó, Hàn Quốc không đặt ngưỡng km “cứng” trên toàn quốc; trọng tâm là an toàn tiếp cận đi bộ và “vùng bảo vệ trường học”. Nghiên cứu an toàn giao thông cho biết nhiều đoạn đường trong bán kính khoảng 300m từ cổng trường tiểu học được thiết kế/giới hạn tốc độ để bảo đảm trẻ có thể đi bộ an toàn. Tài liệu chính sách và nghiên cứu ở Seoul nhấn mạnh khả năng tiếp cận bằng giao thông công cộng và chất lượng hạ tầng dành cho đi bộ hơn là ấn định khoảng cách tuyệt đối.

Từ đó, có thể xác định khung tham chiếu cho Việt Nam như sau: Đối với tiểu học, hướng tới dưới 2-3km ở đô thị; dưới 3-5km ở vùng nông thôn/miền núi (kèm xe buýt học đường/bán trú), dựa vào chuẩn thực hành của Nhật/Anh/Úc và chuẩn quy hoạch Pháp bảo đảm trường gần dân cư. Đối với trung học cơ sở, trong khoảng 5km là mốc hợp lý phổ biến trong chính sách so sánh (Anh 3 miles hỗ trợ; Úc 4,8 km). Đối với trung học phổ thông, khoảng cách chỉ dưới 7-10km với cơ chế hỗ trợ vận chuyển hoặc bán trú; tham chiếu thực tiễn đô thị lớn (Trung Quốc) và bang ở Úc.

Thực trạng bố trí, quy hoạch mạng lưới trường lớp ở Việt Nam

Theo Báo cáo tổng kết năm học 2023-2024 của Bộ Giáo dục và Đào tạo, đến năm học 2024-2025, 100% đơn vị hành chính cấp xã trong cả nước đã có trường tiểu học và 93,2% xã có trường trung học cơ sở. Khoảng 6,8% xã vùng sâu, vùng cao, biên giới và hải đảo hiện vẫn phải liên xã trong tổ chức trường tiểu học - trung học cơ sở, chủ yếu do mật độ dân cư thấp và điều kiện địa lý đặc thù.

Tại Báo cáo tổng kết năm học 2024-2025 của Bộ Giáo dục và Đào tạo: Ở cấp tiểu học, cả nước có 11.559 trường tiểu học; 8.882.864 học sinh tiểu học; cấp trung học cơ sở có 8.403 trường trung học cơ sở, 6.656.888 học sinh trung học cơ sở.

Theo Niên giám thống kê Việt Nam 2025 của Tổng cục Thống kê, mạng lưới trường lớp cơ bản phủ kín, song, tồn tại hai xu hướng đối nghịch: ở các thành phố lớn và khu công nghiệp, sĩ số trung bình của tiểu học đạt 37,8 học sinh/lớp, trung học cơ sở 44,5 học sinh/lớp, thậm chí tại Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, có lớp vượt 55 học sinh.

Ngược lại, ở miền núi phía Bắc và Tây Nguyên, nhiều trường có quy mô dưới 10 lớp, sĩ số bình quân chỉ 18 học sinh/lớp, một số phải dạy ghép hai trình độ trong cùng phòng học.

Tỉ lệ trung bình phòng học/lớp và mức kiên cố hóa phòng học được nâng cao rõ rệt:

Đối với bậc tiểu học: Phòng học/lớp 1,03, kiên cố hóa 87%, sĩ số 31,8 học sinh/lớp;

Đối với bậc trung học cơ sở: Phòng học/lớp 0,89, kiên cố hóa 95,24%, sĩ số 39,8 học sinh/lớp.

chung-mot-quyet-tam-1.png

Từ đó, theo các chuyên gia, việc tổ chức, sắp xếp trường, lớp phải đảm bảo quy mô trường, lớp, sĩ số học sinh, tiêu chuẩn về cơ sở vật chất theo quy định về trường phổ thông đạt chuẩn quốc gia; nhằm tạo thuận lợi, phù hợp với nhu cầu học tập của người dân.

Mộc Trà