Đưa AI vào trường học là cách làm mới - hay - hấp dẫn nhưng cần tính toán trước khi áp dụng đại trà

07/12/2025 06:24
Ngọc Huyền

GDVN - Bộ GDĐT chuẩn bị thí điểm nội dung giáo dục trí tuệ nhân tạo trong giáo dục phổ thông, với các hình thức dạy học đa dạng, linh hoạt.

Bộ Giáo dục và Đào tạo vừa có văn bản số 7652/BGDĐT-GDPT ngày 21/11/2025 gửi các sở giáo dục và đào tạo xin ý kiến góp ý dự thảo Hướng dẫn triển khai thí điểm nội dung giáo dục trí tuệ nhân tạo (AI) trong giáo dục phổ thông.

Theo kế hoạch, giai đoạn thí điểm sẽ được thực hiện từ tháng 12/2025 đến tháng 5/2026 tại một số cơ sở giáo dục được lựa chọn, với quá trình đánh giá diễn ra thường xuyên. Dự thảo nhấn mạnh yêu cầu triển khai phải bảo đảm tính thống nhất trong toàn quốc, đồng thời tạo điều kiện để các địa phương và nhà trường phát huy sự chủ động, linh hoạt, phù hợp với điều kiện thực tiễn.

Trên cơ sở Khung năng lực AI, Khung nội dung giáo dục AI và khả năng đáp ứng về đội ngũ, cơ sở vật chất, cũng như nhu cầu và năng lực của học sinh, các cơ sở giáo dục có thể lựa chọn một hoặc kết hợp ba hình thức tổ chức: lồng ghép nội dung AI trong các môn học và hoạt động giáo dục thuộc chương trình giáo dục phổ thông; triển khai qua chuyên đề hoặc chủ đề độc lập; tổ chức dưới dạng dạy học tăng cường, câu lạc bộ và hoạt động ngoại khóa.

Lồng ghép nội dung giáo dục AI vào môn học có cả ưu và nhược điểm

Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, cô Trần Thị Thuỷ - Hiệu trưởng Trường Tiểu học Cư M'lan (xã Ea Súp, tỉnh Đắk Lắk) nhận định: "Khi triển khai giáo dục trí tuệ nhân tạo (AI) ở cấp tiểu học, đặc biệt là lớp 1, lớp 2, nhìn chung chỉ có thể thực hiện dưới hình thức lồng ghép vào các môn học và hoạt động giáo dục hiện hành.

Thời khóa biểu của học sinh tiểu học vốn đã kín, chương trình cũng nặng về thời lượng nên gần như không thể bố trí thêm một môn học hay chuyên đề độc lập về AI. Vì vậy, cách khả thi nhất là 'tích hợp nhẹ nhàng và tự nhiên' vào những bài học mà giáo viên thấy phù hợp".

Cô Thuỷ cho biết các môn học có thể lồng ghép nội dung AI khá đa dạng. Trong môn Tin học, giáo viên có thể giới thiệu những khái niệm cơ bản như AI, AI tạo sinh, cách thức hoạt động và những ứng dụng đơn giản.

Ở môn Giáo dục công dân, nội dung về đạo đức khi sử dụng AI, nhận biết thật - giả trên môi trường số hay cách sử dụng công nghệ một cách an toàn có thể được đưa vào dễ dàng. Với Ngữ văn, Sinh học hay Địa lý, giáo viên có thể cho học sinh sử dụng AI như một công cụ hỗ trợ học tập, chẳng hạn tìm hình minh họa, tạo bản đồ, gợi ý cách trình bày… Tùy từng bài dạy, giáo viên sẽ tự cân nhắc nội dung phù hợp để tích hợp, thay vì bị ràng buộc phải đưa vào một môn học cố định.

hinh-anh-co-tran-thi-thuy-bao-cao-so-ket-ki-1.jpg
Cô Trần Thị Thuỷ - Hiệu trưởng Trường Tiểu học Cư M'lan. Ảnh: NVCC

Cô Thuỷ chia sẻ: "Ưu điểm lớn nhất của hình thức lồng ghép nội dung giáo dục AI vào môn học là tính linh hoạt. Giáo viên thấy bài nào phù hợp thì đưa vào, học sinh cũng tiếp thu tự nhiên qua từng môn học. Cách làm này giúp giáo viên chủ động sáng tạo, đồng thời không tạo áp lực tăng thêm thời lượng học cho học sinh".

Cô Đinh Như Quỳnh - Hiệu trưởng Trường Tiểu học Kon Dơng số 2 (xã Mang Yang, tỉnh Gia Lai) cũng nhận định, việc đưa nội dung giáo dục về trí tuệ nhân tạo vào trường học là một việc làm mới - hay - hấp dẫn đối với học sinh. Khi được tiếp cận AI ngay trong môn học quen thuộc, các em không chỉ biết sử dụng công cụ AI, mà còn hiểu cách dùng sao cho đúng, hợp lý, tránh lạm dụng.

Hình thức lồng ghép nội dung này trong các môn học cũng giúp học sinh có kiến thức nền, kiến thức liên môn về cách AI hoạt động, từ đó phát triển kỹ năng số và khả năng vận dụng công nghệ vào học tập và đời sống. Nhìn từ phía người quản lý, việc bổ sung nội dung AI mang lại cơ hội mở rộng tri thức cho học sinh, giúp các em không bị tụt lại khi xã hội bước vào giai đoạn chuyển đổi số mạnh mẽ.

Nữ hiệu trưởng cho biết, từ đầu năm học 2025 - 2026, trường đã thực hiện lồng ghép nội dung giáo dục số vào các môn học và hoạt động giáo dục có trong chương trình giáo dục phổ thông. Do vậy, nếu triển khai dạy nội dung giáo dục về trí tuệ nhân tạo, trường có thể thực hiện được. Đây cũng là hình thức được Bộ Giáo dục và Đào tạo khuyến khích bởi tính linh hoạt và khả năng phổ cập rộng rãi thông qua chính các bài học vốn có của chương trình.

Trong nội dung giáo dục về AI, có ba hình thức triển khai. Cô Quỳnh cho hay, hình thức lồng ghép có thể sẽ được nhiều trường lựa chọn, đặc biệt với những trường không mạnh về hoạt động ngoại khoá/câu lạc bộ và cũng có ít thời gian để tổ chức chuyên đề, chủ đề độc lập.

Mặc dù vậy, thực tiễn triển khai tại một trường vùng sâu, vùng xa như Trường Tiểu học Kon Dơng số 2 lại bộc lộ nhiều khó khăn rõ rệt. Một trong những hạn chế lớn nhất là điều kiện cơ sở vật chất và thiết bị học tập của học sinh vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn rất hạn chế.

Trong lớp học 35 - 40 học sinh, thời lượng chỉ 45 phút mỗi tiết học khiến giáo viên khó có thể vừa dạy kiến thức môn học, vừa tích hợp nội dung AI, vừa hướng dẫn học sinh thực hành. Khi về nhà, phần lớn các em lại không có máy tính, điện thoại hay Internet để tự luyện tập, dẫn đến sự đứt gãy trong tiếp thu và ứng dụng.

Ngoài ra, việc tiếp xúc nhiều với thiết bị điện tử cũng mang lại những lo ngại về mặt trái: học sinh dễ phụ thuộc, giảm tương tác thực tế. Vì vậy, dù AI mang lại lợi ích rõ rệt, giáo viên vẫn phải cân nhắc kỹ lưỡng để giữ cân bằng giữa học tập và sức khỏe tinh thần, thể chất của học sinh.

Một bất cập lớn khác mà cô Quỳnh nhấn mạnh là khối lượng nội dung tích hợp ngày càng nhiều trong chương trình giáo dục phổ thông 2018. Giáo viên hiện phải lồng ghép hàng loạt nội dung như kỹ năng số, công dân số, phòng cháy chữa cháy, an toàn giao thông...

Cô cũng nêu rõ khó khăn trong công tác kiểm tra - đánh giá. Vì nội dung AI không được quy định sẵn trong sách giáo khoa, mỗi trường phải tự nghiên cứu, tự xây dựng kế hoạch giáo dục và quyết định tích hợp vào bài nào, môn nào, hoạt động nào. Điều này dễ gây khó khăn cho cơ quan kiểm tra: muốn xem nhà trường thực hiện đến đâu, lại phải đối chiếu kế hoạch giáo dục từng trường, từng môn, từng bài.

Một điểm bất cập nữa là không phải môn học nào cũng có điều kiện tự nhiên để tích hợp AI. Với môn Tin học, việc tích hợp dễ hơn nhưng thời lượng môn này chỉ có khoảng 34 - 35 tiết/năm, đặc biệt học sinh lớp 1 - 2 chưa học Tin học, khiến khả năng triển khai hạn chế.

Còn với các môn như Ngữ văn, Đạo đức, Giáo dục công dân…, giáo viên phải tự nghiên cứu thêm về AI, tìm cách đưa vào bài giảng một cách phù hợp. Điều này làm tăng khối lượng công việc và yêu cầu bồi dưỡng năng lực mới của giáo viên.

Nhìn chung, hình thức lồng ghép có ưu điểm lớn về tính phổ cập, linh hoạt, góp phần mở rộng kiến thức và phát triển kỹ năng số cho học sinh. Tuy nhiên, trong điều kiện thực tế của vùng khó, hình thức này khiến giáo viên quá tải, học sinh thiếu điều kiện thực hành, và nhà trường khó đảm bảo chất lượng đồng đều.

2025-11-13-09-02-5125.png
Cô Đinh Như Quỳnh - Hiệu trưởng Trường Tiểu học Kon Dơng số 2. Ảnh: NVCC

Cần linh hoạt phối hợp giữa các hình thức, tránh tích hợp quá nhiều nội dung trong một môn học

Từ những quan sát và trải nghiệm thực tế, cô Đinh Như Quỳnh đưa ra một số đề xuất thiết thực để hình thức lồng ghép trở nên hiệu quả hơn.

Trước hết, cô mong muốn các nội dung giáo dục AI được đưa trực tiếp vào sách giáo khoa thay vì chỉ quy định ở mức độ khung nội dung giáo dục AI và yêu cầu các trường tự triển khai. Việc này sẽ giúp giảm đáng kể gánh nặng cho giáo viên, đảm bảo thống nhất trên toàn quốc và thuận lợi cho công tác kiểm tra - đánh giá.

Khi nội dung đã có sẵn trong sách, giáo viên chỉ cần dạy theo bài giống như dạy các kiến thức khác thay vì tự nghiên cứu và tự tìm cách lồng ghép. Điều đó giúp giảm tình trạng quá nhiều nội dung tích hợp làm loãng chất lượng dạy học.

Thứ hai, cần có bộ học liệu, giáo án mẫu, ngân hàng "hoạt động dạy học AI chuẩn hóa" để hỗ trợ giáo viên. Việc này đặc biệt cần thiết đối với các môn không phải Tin học, nơi giáo viên vốn không quen với các kiến thức công nghệ và phải tự học thêm rất nhiều để đáp ứng yêu cầu.

Thứ ba, cô đề xuất Bộ Giáo dục và Đào tạo và các cấp quản lý giảm áp lực tích hợp, rà soát lại toàn bộ các nội dung đang yêu cầu lồng ghép để tránh tình trạng giáo viên “cõng quá nhiều việc” trong một tiết học. Việc tích hợp cần thực sự có trọng tâm, tránh dàn trải, tránh “bám theo phong trào”.

Thứ tư, với các trường vùng sâu vùng xa, cần có chính sách hỗ trợ thiết bị, phòng máy, kết nối Internet và chương trình thực hành tối thiểu để học sinh có cơ hội sử dụng AI thực tế. Hình thức lồng ghép chỉ hiệu quả khi học sinh được trải nghiệm, không chỉ nghe lý thuyết.

Cuối cùng, cô cho rằng cần kết hợp đa dạng hình thức triển khai, không chỉ lồng ghép trong bài học mà còn thực hiện qua hoạt động chuyên đề, câu lạc bộ, trải nghiệm sáng tạo… để bù đắp những hạn chế của lồng ghép, đồng thời tạo điều kiện cho học sinh tiếp cận AI sâu hơn và chủ động hơn.

Về phía cô Trần Thị Thuỷ, cô cho rằng để việc lồng ghép nội dung trí tuệ nhân tạo (AI) vào các môn học đạt hiệu quả, ngành giáo dục cần có sự chuẩn bị kỹ lưỡng ngay từ đầu.

Theo cô, quan trọng nhất là tổ chức tập huấn bài bản cho giáo viên và xây dựng đội ngũ cốt cán có khả năng nghiên cứu, xác định những bài học phù hợp để tích hợp nội dung AI. Nếu có tài liệu cụ thể, có gợi ý rõ ràng các dạng bài nên tích hợp thì giáo viên sẽ dễ triển khai hơn rất nhiều.

"Công tác chuẩn bị nguồn lực trước khi thí điểm cũng giữ vai trò quyết định. Về cơ sở vật chất, các cơ sở giáo dục cần cơ bản bảo đảm được các điều kiện như máy tính, tivi, máy chiếu; đội ngũ giáo viên cũng có thể đáp ứng nếu được bồi dưỡng thêm.

Tuy nhiên, khả năng tiếp cận của học sinh là yếu tố cần cân nhắc. Với học sinh từ lớp 3 trở lên, việc tiếp nhận nội dung AI khả thi hơn, còn lớp 1, lớp 2, đặc biệt ở những nơi có tỷ lệ lớn học sinh dân tộc thiểu số sẽ gặp nhiều khó khăn hơn trong việc tiếp cận khái niệm mới", cô Thuỷ nhấn mạnh.

Theo cô Thuỷ, để lồng ghép hiệu quả, cần đồng thời đảm bảo ba điều kiện: giáo viên có kiến thức cơ bản về AI, cơ sở vật chất đầy đủ, hệ thống tài liệu/giáo án tích hợp rõ ràng. Bên cạnh đó, nữ nhà giáo cũng bày tỏ mong muốn Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ triển khai thí điểm ở cả vùng thuận lợi lẫn khó khăn, nhằm đánh giá toàn diện tính khả thi trước khi nhân rộng.

Ngọc Huyền