A-220M (hay AU A-220M) là một biến thể nâng cấp của AU A-220. Trong những năm 1967, pháo A-220 1x57mm bắt đầu được thiết kế.
Tàu sân bay hạt nhân Carl Vinson (CVN-70)
Tàu sân bay USS Abraham Lincoln (CVN-72)
Tàu sân bay Ronald Reagan chở toàn ô tô đẹp của thuỷ thủ Mỹ
12 hình ảnh ấn tượng nhất của Thuỷ quân lục chiến Mỹ năm 2011
Khu trục hạm mạnh nhất của Hải quân Anh tiến đến gần Iran
Đến năm 1968, Viện nghiên cứu trung tâm CRI “Burevestnik” đã hoàn thành xong bản vẽ thiết kế của nguyên mẫu A-220 đầu tiên. Năm 1975 - 1977, nguyên mẫu AU A-220M đã được đem thử nghiệm trên mặt đất.
Các thử nghiệm được xác nhận là không đạt yêu cầu, và nguyên mẫu được tiến hành sửa đổi. Năm 1977 - 1978, AU A-220 được đem thử nghiệm cùng với hệ thống kiểm soát bắn Vimpel-220.
Để thử nghiệm, người ta đã lắp đặt hệ thống pháo này trên tàu lớp 206PE . Lần thử nghiệm này AU A-220 đã thành công, tuy nhiên hệ thống kiểm soát bắn không hoạt động.
Trong những năm 2000 - 2001, CRI “Burevestnik” tiếp tục phát triển và hiện đại hóa AU-220. Các nhà máy đã tiến hành nâng cấp AU-220. Biến thể mới này được gọi là AU A-220M hay A-220M. Mục đích chủ yếu của biến thể A-220M là để lắp đặt trên các tàu có tải trọng trên 250 tấn.
Pháo đa năng AU-220
Pháo đa năng AU-220 được trang bị cho các tàu có tải trọng 250 tấn. AU sử dụng kết hợp với hệ thống kiểm soát bắn Vimpel-220 và radar MR-123. Chúng hỗ trợ việc dẫn hướng và theo dõi các mục tiêu mặt đất và mặt nước ở phạm vi lên đến 5 km.
Cơ số đạn: 400 viên
Chiều cao: 3,2 m
Trọng lượng: 6 tấn
Ngắm đứng: -5 độ đến 80 độ
Ngắm ngang: -180 độ đến 180 độ
Chiều dài nòng pháo: 75 ca líp
Giật: 300 mm
Trọng lượng đạn: 6.5 kg
Vận tốc ban đầu của đầu đạn: 1km/s
Tầm bắn (đối với các mục tiêu mặt nước, mặt đất): lên đến 9 km
Tầm bắn (đối với các mục tiêu trên không): 6 km
Tốc độ bắn trung bình: 300 phát/phút
Một băng đạn: 50 viên
Thời gian chuẩn bị cho loạt bắn tiếp theo: 20-30 giây
AU-220 được lắp đặt trên tàu № 110 lớp 206PE hiện vẫn đang phục vụ trong Hải quân Nga.
Biến thể nâng cấp AU A-220M
Lắp đạt trên các tàu có tải tọng trên 250 tấn. Theo yêu cầu của CRI “Burevestnik ", AU A-220M phải có khả năng lắp đặt trên bất kỳ con tàu hiện đại nào. AU A-220M có thể tiêu diệt các mục tiêu trên biển, mặt đất và trên không. Nó hoạt động tốt ở điều kiện nhiệt độ từ -40 đến 50 độ C.
Cấu tạo và tính năng kỹ chiến thuật của AU A-220M:
Tự động
Có giá để lắp đặt các phụ kiện
Hòm chứa đạn
Lớp bảo vệ bằng hợp kim nhôm
Có hệ thống kiểm soát bắn
Sử dụng đạn pháo CFC- 53-UOR-281U
Cơ số đạn: 400 viên
Nguồn: 380 V, 50 Hz
Công suất: 14 kw/h
Hệ thống làm mát bằng nước
Tốc độ bắn trung bình: 300 phát/phút
Tầm bắn (đối với các mục tiêu mặt nước, mặt đất): lên đến 12 km
Tầm bắn (đối với các mục tiêu trên không): 8 km
Ngắm đứng: -5 độ đến 80 độ
Ngắm ngang: -180 độ đến 180 độ
Trọng lượng: 6 tấn
Cải tiến AU-220 với nòng pháo BM-57 57mm
Mục đích chủ yếu là để lắp đặt trên các thiết bị quân sự và các phương tiện chiến đấu hiện đại. AU-220M được phát triển dựa trên khẩu súng chống máy bay tầm trung S-60.
Nó cũng đã từng được đề xuất để lắp đặt trên xe tăng lội nước hạng nhẹ PT-76. Mặc dù không còn phục vụ trong quân đội Nga, tuy nhiên PT-76 vẫn được nước này hiện điện đại hóa để phục vụ nhu cầu của các khách hàng nước ngoài.
PT-76, viết tắt của (Плавающий Танк/Plavajuschij Tank trong tiếng Nga) là kí hiệu loại xe tăng lội nước hạng nhẹ của quân đội Xô Viết nặng khoảng 14 tấn.
Xe tăng PT-76 được giới thiệu lần đầu tiên vào đầu thập niên 1950, và sớm trở thành mẫu xe tăng trinh sát tiêu chuẩn của quân đội Xô Viết và những lực lượng quân sự thuộc khối Hiệp ước Warszawa.
PT-76 cũng được xuất khẩu rộng rãi đến các nước khác như Việt Nam, Iraq, Bắc Triều Tiên và Cuba Có hơn 25 nước sử dụng PT-76.
Trong Chiến tranh Việt Nam, Quân đội Nhân dân Việt Nam đã đưa PT-76 vào chiến đấu trong các trận Làng Vây, Bến Hét và tham gia chiến đấu hợp đồng binh chủng.
Đặc điểm chính của AU-220M sử dụng pháo BM-57
Cơ số đạn: 92 viên
Tầm bắn (đối với các mục tiêu mặt nước, mặt đất): lên đến 8 km
Tầm bắn (đối với các mục tiêu trên không): 5 km
Có hệ thống kiểm soát bắn