Huyện Tiên Lãng "trần tình" về vụ cưỡng chế ở Hải Phòng

06/02/2012 11:13
Tuấn Nam
(GDVN) - UBND huyện Tiên Lãng vừa đăng bài viết về vụ cưỡng chế thu hồi đất nuôi trồng thủy sản đối với ông Vươn trên cổng thông tin điện tử TP Hải Phòng.
Báo điện tử Giáo dục Việt Nam xin dẫn nguyên văn thông tin từ UBND huyện Tiên Lãng được đăng tải trên cổng thông tin của UBND TP. Hải Phòng:

Vụ cưỡng chế thu hồi đất nuôi trồng thủy sản đối với ông Đoàn Văn Vươn - Thông tin đầy đủ và đúng bản chất về sự việc

Tiên Lãng là huyện có điều kiện địa lý tự nhiên tiếp giáp sông, biển, phù sa bồi tụ khu vực cửa sông và ven biển, hàng năm lấn ra biển tới hàng trăm mét. Trong những năm 1980, sau khi quai đê lấn biển, huyện đã phát triển thêm 3 xã (Đông Hưng-Tây Hưng và Tiên Hưng). Từ sau năm 1990, UBND huyện tích cực huy động các nguồn vốn trong đó có nguồn vốn theo Quyết định 327/CT ngày 15/9/1992 của Chủ tịch HĐBT (nay là Thủ tướng Chính phủ) về một số chủ trương chính sách sử dụng đất trống đồi núi trọc, rừng, bãi bồi ven biển có mặt nước; Quyết định 567/QĐ-UB ngày 22/4/1992 của UBND thành phố Hải Phòng về đẩy mạnh khai thác và nuôi trồng thuỷ sản trên các vùng bãi triều ven biển.

Khu đầm nhà ông Vươn sau cưỡng chế (Ảnh: Tuấn Nam)
Khu đầm nhà ông Vươn sau cưỡng chế (Ảnh: Tuấn Nam)

Để quản lý, sử dụng có hiệu quả quỹ đất mới được bồi tụ, tạo điều kiện cho những người có điều kiện khai thác, nuôi trồng thuỷ sản trên vùng bãi bồi, đồng thời khắc phục tình trạng một số người dân tự ý ra khoanh vùng chiếm đất có mặt nước, tranh chấp với những người dân đánh bắt ngư lợi tự nhiên, gây mất an ninh trật tự, ngày 06/10/1993, UBND huyện Tiên Lãng đã ban hành hành Quy định số 497/QĐ-UB quy định về quản lý và sử dụng mặt đất, mặt nước vùng bãi bồi ven sông, ven biển trên địa bàn huyện.

Ngày 22/10/1993, Bộ trưởng Bộ Thuỷ sản ban hành Quyết định 750 TS/QĐ về việc phê duyệt dự án đầu tư khai thác vùng bãi bồi ven biển phát triển NTTS huyện Tiên Lãng, Hải Phòng. Từ năm 1993 đến năm 2000, huyện đã đưa 1.431 ha đất bãi bồi ven sông, ven biển sử dụng vào mục đích NTTS, trong đó UBND huyện giao cho 56 hộ gia đình, cá nhân với diện tích 515 ha, các xã, thị trấn cho 219 hộ thuê 583 ha, UBND thành phố cho Công ty công nghệ Việt Mỹ thuê 333 ha.

Trong số các hộ được UBND huyện giao đất chưa sử dụng vào NTTS có hộ ông Đoàn Văn Vươn được giao 21ha, sau đó được giao bổ sung 19,3 ha thời hạn giao 14 năm, từ tháng 10/1993. Khi hết hạn, UBND huyện thu hồi đất để giao cho UBND xã Vinh Quang quản lý cho thuê theo quy định của Luật Đất đai năm 2003.

Sau nhiều năm giải quyết việc thu hồi để cho thuê theo quy định của Luật Đất đai năm 2003, ông Đoàn Văn Vươn không chấp hành, yêu cầu huyện phải tiếp tục giao đất. Ngày 05/01/2012 UBND huyện tổ chức cưỡng chế thu hồi và đã giao cho UBND xã Vinh Quang quản lý 19,3ha đất. Tuy nhiên, khi tiến hành thu hồi đất, đối tượng đã manh động chống trả, gây ra vụ án chống người thi hành công vụ nghiêm trọng. Trên các phương tiện thông tin có những thông tin đã đưa tin không đầy đủ và không đúng thực chất của việc thu hồi đất của huyện. UBND huyện thông tin làm rõ một số vấn đề liên quan như sau:

1-Về giao đất:

-Khi vùng đất được bồi tụ, chưa sử dụng, để quản lý, khai thác vùng đất ngập nước, căn cứ Luật Đất đai năm 1987 (công bố ngày 08/01/1988), Nghị định 30/HĐBT ngày 23/3/1989 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) và Thông tư  05/TTLB ngày 18/12/1991 của Liên bộ Bộ Thuỷ sản và Tổng cục Quản lý đất đai hướng dẫn việc quản lý, sử dụng đất có mặt nước để nuôi trồng thuỷ sản.

-UBND huyện Tiên Lãng ban hành các quyết định giao đất có thời hạn cho một số hộ có nhu cầu và để khai thác, NTTS; Người được giao đất chỉ phải nộp thuế theo quy định, khi hết thời hạn giao đất chủ sử dụng đất phải bàn giao lại toàn bộ mặt bằng và các công trình phục vụ sản xuất, vật kiến trúc xây dựng trong phạm vi đất được giao, nhà nước (UBND huyện) không tính toán giá trị tài sản còn lại cho chủ sử dụng đất.

-Căn cứ điểm b khoản 4 Điều 13 Luật Đất đai năm 1987; điều 3 Nghị định 30/HĐBT ngày 23/3/1989 và điểm 2 mục II Thông tư 05/TTLT ngày 18/12/1991 của Liên bộ Thuỷ sản và Tổng cục QLĐĐ; UBND huyện Tiên Lãng đã ban hành Quyết định số 447/QĐ-UB ngày 04/10/1993 giao đất chưa sử dụng cho ông Đoàn Văn Vươn sử dụng thời hạn 14 năm với diện tích là 21 ha.

-Ngay từ khi được giao đất, ông Đoàn Văn Vươn đã lấn chiếm thêm 19,3 ha, đến năm 1997, UBND huyện kiểm tra và phát hiện ông Vươn lấn chiếm đã xử lý phạt vi phạm hành chính. Theo đề nghị của ông Vươn, UBND huyện đã giao tiếp 19,3ha, thời gian giao đất tính từ ngày giao diện tích 21ha là ngày 04/10/1993.

*Lý do không giao đất theo Nghị định 64/CP :

-Đất giao cho các hộ sử dụng là diện tích nằm ngoài đê Quốc gia, chưa ổn định, chưa sử dụng, đang thực hiện dự án Vinh Quang 2 do UBND huyện quản lý.

-Theo quy định tại điểm b khoản 4 Điều 13 Luật đất đai năm 1987: UBND huyện giao đất chưa sử dụng cho tổ chức, cá nhân sử dụng có thời hạn hoặc tạm thời để sản xuất nông nghiệp.

Ngôi nhà của ông Quý đã bị san phẳng và thay vào đó là một chiếc lều dựng tạm (Ảnh: Tuấn Nam)
Ngôi nhà của ông Quý đã bị san phẳng và thay vào đó là một chiếc lều dựng tạm (Ảnh: Tuấn Nam)

-Diện tích giao cho ông Đoàn Văn Vươn trong vùng đất chưa ổn định, không thể giao ổn định lâu dài theo Nghị định 64/CP ngày 27/9/1993 của Chính phủ. Trong thời kỳ thực hiện Dự án được Bộ Thuỷ sản phê duyệt tại Quyết định số 750 TS/QĐ ngày 22/10/1993, diện tích giao cho ông Vươn nằm trong tiểu vùng II rộng 200 ha là đất bãi triều trống, còn hoang hoá, cần đầu tư hạ tầng để đưa vào sử dụng.

-Xác định không giao diện tích đất bãi triều chưa ổn định theo Nghị định 64/CP, UBND huyện quản lý, đến khi ổn định thì giao cho UBND xã sở tại quản lý; Căn cứ quy định tại điểm 3 Điều 14 Nghị định 74/CP ngày 25/10/1993: đất lấn biển được miễn thuế 07 năm. UBND huyện đã thực hiện nghiêm túc và bắt đầu giao nghĩa vụ nộp thuế sử dụng đất nông nghiệp từ năm 2000.

-Ông Đoàn Văn Vươn không được giao đất theo nghị định 64/CP trên địa bàn xã Vinh Quang, do đã được địa phương nơi cư trú giao ổn định 20 năm  (UBND xã Bắc Hưng giao cho hộ gia đình ông Vươn 7 khẩu, diện tích 2.940m2).

*Lý do giao 19,3 ha không tính từ ngày giao đất ( 09/4/1997):

Xét đề nghị của ông Đoàn Văn Vươn đã thành khẩn nhận rõ việc làm sai trái, lấn chiếm và chấp nhận xử phạt vi phạm hành chính (một triệu đồng). Căn cứ điểm a, khoản 11, mục I, Thông tư 278/TT-ĐC ngày 07/3/1997 của Tổng cục Địa chính hướng dẫn thực hiện Nghị định 04/CP ngày 10/01/1997 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai năm 1993, để tạo điều kiện cho người dân, UBND huyện tiếp tục giao cho ông Đoàn Văn Vươn 19,3 ha, thời hạn tính từ ngày 04/10/1993.

-Diện tích này ông Đoàn Văn Vươn khai báo là đắp vùng rộng ra (sử dụng diện tích này ngay từ khi đắp vùng năm 1993).

-Khi giao bổ sung sử dụng cùng với diện tích giao trước, ông Đoàn Văn Vươn đã đồng tình và từ đó đến nay không có khiếu nại về thời gian giao đất, không có khiếu nại về chỉ tiêu nộp thuế SDĐ nông nghiệp đối với diện tích 19,3ha.

*Lý do giao đất có thời hạn dưới 15 năm:

 Xác định đất bãi bồi, đang lấn biển, chưa ổn định, chưa sử dụng thì không thuộc loại đất giao ổn định 20 năm như quy định của Nghị định 64/CP ngày 27/9/1993 của Chính phủ là căn cứ vào:

-Tại điểm 2 mục II Thông tư  05/TTLB ngày 18/12/1991 của Liên bộ Thuỷ sản và Tổng cục Quản lý đất đai quy định: Mặt nước giao có thời hạn không quá 15 năm.

-Điều 5, Nghị định 64/CP ngày 27/9/1993 của Chính phủ quy định mức hạn điền: Đất nông nghiệp tại các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, như Hải Phòng không quá 2,0ha.

-Khoản 2, Điều 67, Luật Đất đai năm 2003 quy định thời hạn: Thời hạn sử dụng đối với diện tích đất nông nghiệp vượt hạn mức do được giao trước ngày 01/01/1999 bằng một phần hai thời hạn quy định tại khoản 1 điều này (10 năm), sau đó phải chuyển sang thuê đất. 

2-Về thu hồi đất:

-Căn cứ Nghị định 30/HĐBT ngày 23/3/1989 hướng dẫn thi hành Luật Đất đai năm 1987, tại khoản 6 Điều 23 quy định : Người được giao đất có mặt nước để quai đê lấn biển, nuôi trồng thuỷ sản thì thời gian đưa đất vào sử dụng được kéo dài thêm 6 tháng so với quy định tại khoản 5 Điều 14 Luật Đất đai; UBND huyện Tiên Lãng đã để dài thêm đến 18 tháng kể từ khi đến hạn phải giao trả, nhưng ông Đoàn Văn Vươn không bàn giao mà tiếp tục sử dụng 40,3 ha trong gần 4 năm qua không nộp bất cứ khoản nào cho Nhà nước. Cho đến nay ông Đoàn Văn Vươn không chịu nộp số tiền thuế sử dụng đất nông nghiệp là 10.035.000 đồng.

-Khi hết thời hạn giao đất, UBND huyện Tiên Lãng yêu cầu ông Đoàn Văn Vươn giao trả lại để thực hiện cho thuê theo Luật Đất đai năm 2003; Việc thu hồi đất đã giao cho ông Đoàn Văn Vươn căn cứ vào quy định tại khoản 10 Điều 38 Luật Đất đai năm 2003 và căn cứ Điều 80 Luật Đất đai năm 2003, khoản 5 Điều 36 Nghị định 181/2004/NĐ-CP giao cho UBND xã Vinh Quang quản lý quỹ đất này để cho thuê theo quy định.

-Ông Đoàn Văn Vươn không chấp hành việc thu hồi đất giao đã hết thời hạn, khởi kiện ra TAND về quyết định thu hồi của UBND huyện. TAND cấp sơ thẩm đã xét xử, bác đơn khởi kiện của ông Vươn.

-Sau đó ông Vươn kháng cáo lên Toà án nhân dân thành phố Hải Phòng; TAND thành phố đã quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm, ông Vươn xin rút toàn bộ yêu cầu kháng cáo, TAND thành phố quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm và tuyên bản án của TAND huyện Tiên Lãng có hiệu lực pháp luật. Căn cứ vào phán quyết đó, UBND huyện Tiên Lãng đã nhiều lần làm việc với ông Vươn để bàn việc cho thuê đất, nhưng ông Vươn kiên quyết đòi phải được giao lại đất.

-Để đảm bảo kỷ cương, thực hiện trách nhiệm QLNN về đất đai. Sau khi báo cáo các cơ quan có thẩm quyền thành phố, sau nhiều lần đối thoại (8 lần thông báo và làm việc trực tiếp), UBND huyện Tiên Lãng đã tiến hành cưỡng chế thu hồi đất đã giao cho ông Đoàn Văn Vươn.

*Lý do thu hồi đất, không bồi thường:

-Căn cứ mục a, khoản 1, Điều 43 Luật Đất đai năm 2003 không bồi thường về đất; mục c, khoản 2, Điều 43 Luật Đất đai năm 2003 không bồi thường về tài sản gắn liền với đất.

-Quyết định số 447/QĐ-UB ngày 04/10/1993 của UBND huyện Tiên Lãng đã quy định rõ khi hết thời hạn giao đất chủ sử dụng đất phải bàn giao lại toàn bộ mặt bằng và các công trình phục vụ sản xuất, vật kiến trúc xây dựng trong phạm vi đất được giao, nhà nước (UBND huyện) không tính toán giá trị tài sản còn lại cho chủ sử dụng đất.

3-Về đầu tư của Nhà nước:

-Thực hiện chương trình mục tiêu Quốc gia theo Quyết định 327/CT ngày 15/9/1992 của Chủ tịch HĐBT (nay là Thủ tướng Chính phủ) về một số chủ trương chính sách sử dụng đất trống đồi núi trọc, rừng, bãi bồi ven biển có mặt nước, UBND huyện Tiên Lãng lập Dự án Vinh Quang II để đầu tư xây dựng các công trình hạ tầng như đường công vụ, cống điều tiết nước…

-Dự án Vinh Quang II được Bộ trưởng Bộ Thuỷ sản phê duyệt tại Quyết định số 750 TS/QĐ ngày 22/10/1993 với vốn đầu tư 10.600 triệu đồng; UBND thành phố Hải Phòng phê duyệt điều chỉnh lần I tại Quyết định số 1785/QĐ-UB ngày 09/10/1997 với tổng mức đầu tư 19.138 triệu đồng, được điều chỉnh lần II tại Quyết định số 821/QĐ-UBND ngày 21/5/2007 với tổng mức đầu tư là 48.200 triệu đồng, vốn NSNN: 14.046 triệu đồng, bằng 30%, vốn huy động bằng 70%.

-Dự án Khu nuôi tôm xuất khẩu TNXP Vinh Quang, Hải Phòng do Tổng đội TNXP thành phố Hải Phòng quản lý có tổng mức đầu tư đã hoàn thành và giá trị quyết toán (theo Quyết định số 02/QĐ-TWĐTN ngày 24/12/2007 của Trung ương Đoàn) là 21.093 triệu đồng, vốn ngân sách 100%.

-Việc trồng rừng phòng hộ: Năm 1999 và năm 2000, Sở Nông nghiệp và PTNT Hải Phòng đầu tư trồng 55 ha rừng phòng hộ bảo vệ diện tích bãi triều với số tiền 51 triệu đồng, hợp đồng với ông Đoàn Văn Vươn trồng và trông coi bảo vệ.

*Các dự án trên đều liên quan đến vùng đất giao cho ông Đoàn Văn Vươn. Trong đó: Dự án Vinh Quang II làm đường công vụ cống Rộc năm 1998 dài 526m với giá trị quyết toán là 292.859.000 đồng; Dự án nuôi tôm xuất khẩu TNXP Vinh Quang đầu tư các hạng mục công trình khu đầm ông Đoàn Văn Vươn với số tiền là 6.635.752.461 đồng. Dự án trồng 55 ha rừng phòng hộ với số tiền 51 triệu đồng. Ông Đoàn Văn Vươn tham gia ngăn bờ, tạo ao, xây một số cống nhỏ.

4-Về thực hiện nghĩa vụ tài chính:

-Căn cứ Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp có hiệu lực từ ngày 15/10/1993; Nghị định 74/CP ngày 25/10/1993 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp.

-Căn cứ điểm 2, mục I  Thông tư 89/TC/TCT ngày 09/11/1993 của Bộ Tài chính quy định: Đất có mặt nước nuôi trồng thuỷ sản chịu thuế sử dụng đất nông nghiệp là đất chuyên nuôi trồng thuỷ sản hoặc vừa nuôi trồng thuỷ sản vừa trồng trọt, về cơ bản không sử dụng vào các mục đích khác…có chủ sử dụng.

-Điểm 3 Điều 14 Nghị định 74/CP ngày 25/10/1993 quy định …đất chưa bao giờ được dùng vào sản xuất…lấn biển được miễn thuế  07 năm.

-Thực hiện quy định số 497/QĐ-UB ngày 06/10/1993 quy định về quản lý và sử dụng mặt đất, mặt nước vùng bãi bồi ven sông, ven biển, những năm 1993-1999 UBND huyện không giao chỉ tiêu thực hiện nghĩa vụ nộp thuế. Từ năm 2000, UBND huyện quyết định giao chỉ tiêu thuế SDĐ Nông nghiệp cho các hộ NTTS.

-Pháp lệnh của UBTVQH ngày 26/3/1994 về Thuế bổ sung đối với hộ gia đình sử dụng đất nông nghiệp vượt quá hạn mức diện tích; Nghị định 84/CP ngày 08/8/1994 của Chính phủ quy định chi tiết thực hiện Pháp lệnh;

-Từ các căn cứ trên, UBND huyện đã ban hành các quyết định giao chỉ tiêu thu thuế sử dụng đất nông nghiệp, trong đó hộ ông Đoàn Văn Vươn nộp từ năm 2000 đến năm 2007 như sau: Tổng số thuế ghi thu là 58.466.700 đồng, trong đó thuế môn bài 5.850.000 đồng, số thuế SDĐ nông nghiệp ông Vươn phải nộp cho 40,3 ha là: 52.616.700 đồng; Đã nộp: 42.581.700 đồng; Số còn nợ đọng đến nay là 10.035.000 đồng.

-Như vây, trong thời gian được giao đất ông Đoàn Văn Vươn được hưởng lợi từ đầu tư trực tiếp của Nhà nước hàng tỷ đồng, nhưng chỉ đóng góp cho ngân sách được gần 50 triệu đồng, trong khi mỗi ha đất mặt nước NTTS  ở xã Vinh Quang được cho thuê với mức giá trung bình là 2,5 triệu đồng/năm, nghĩa là 100 triệu đồng/40ha/năm. 

*Về nợ đọng tiền thuế: Chi cục Thuế huyện và UBND xã Vinh Quang đã căn cứ quyết định của UBND huyện nhiều lần đôn đốc việc nộp thuế. Tuy nhiên, ông Đoàn Văn Vươn vẫn không chấp hành, không nộp số tiền thuế tồn đọng năm 2007 là 10.035.000 đồng (từ 2008 đến nay UBND huyện không giao chỉ tiêu nộp thuế đối với các hộ NTTS trên đất đã hết thời hạn giao).

5-Về tổ chức cưỡng chế:

Một số thông tin cho rằng, UBND huyện sử dụng hàng chục cán bộ, chiến sỹ công an, quân sự tham gia tổ chức cưỡng chế là không đúng thực tế. Để tổ chức bảo vệ, đảm bảo ANTT và phòng ngừa xảy ra chống người thi hành công vụ, lực lượng tham gia cưỡng chế bố trí một số công an huyện, xã, dân quân, qua trinh sát nắm tình hình thấy cần phải có lực lượng rà phá bom mìn.

-Trong khi Đoàn cưỡng chế đang tiến hành dò mìn, đang vào vận động thuyết phục lần cuối thì ông Vươn đã cho người thân kích nổ mìn tự tạo, bắn súng đạn hoa cải làm bị thương 6 cán bộ, chiến sỹ Công an huyện và Quân sự huyện.

-Sau khi vụ việc chống người thi hành công vụ nghiệm trọng xảy ra, theo báo cáo của huyện, Ban giám đốc Công an thành phố cử lực lượng cảnh sát cơ động đến để bao vây, truy bắt tội phạm.

 *Sự việc chống người thi hành công vụ có nguyên nhân chủ quan là từ lợi ích:

-Nếu tiếp tục được giao đất mà không phải thuê thì hàng năm ông Đoàn Văn Vươn chỉ phải nộp 10 triệu đồng/40 ha (số thuế ghi thu năm 2007), thay vì phải thuê trên 100 triệu đồng/40 ha (10 lần).

-Nguyên nhân quan trọng nhất là sau khi được giao đất, ông Đoàn Văn Vươn đã cho thuê lại, cụ thể là Hợp đồng thứ 1, cho thuê đất ký ngày 25/12/1999 giữa một bên là ông Đoàn Văn Vươn, một bên là ông Nguyễn Văn Nham xã Vinh Quang với diện tích 6,0ha với giá 5.000.000 đồng/ha/năm (30 triệu đồng/6,0ha/năm) tính từ năm 1999 đến ngày 04/10/2007 là 8 năm bằng 240 triệu đồng. Biên bản bàn giao đầm lập ngày 10/5/2000 diện tích thực tế là 58.655m2 thành tiền là 234.600.000 đồng. Hợp đồng thứ 2 một bên là ông Đoàn Văn Vươn, một bên là ông Phạm Văn Bìa xã Vinh Quang ký ngày 02/3/2008 với diện tích 5,4ha giá cho thuê là 30 triệu đồng/năm, thời hạn đến hết năm 2014 bằng 7 năm, số tiền là 210 triệu đồng. Như vậy là mỗi năm ông Vươn thu địa tô từ phần đất được giao để cho thuê lại chỉ cần 15% diện tích đã gấp 3 lần số tiền thuế SDĐNN phải nộp cho cả 40,3 ha.

-Nếu được giao đất thì khi Nhà nước thu hồi (trước thời hạn) làm dự án nào đó ông Đoàn Văn Vươn được bồi thường về đất, công trình đầu tư trên đất, còn nếu thuê đất, khi đến hạn phải thu hồi thì chỉ được hỗ trợ cây cối, hoa lợi.

*Về công bằng xã hội: Nhà nước đầu tư hàng chục tỷ đồng cho dự án lấn biển, đắp đê bao, làm đường công vụ, trồng rừng phòng hộ; Các chủ vùng tham gia bằng việc khoanh bờ, tạo ao, khai thác, thu lợi, trong khi những hộ dân thuê đất phải trả tiền thuê cao hơn chục lần số tiền thuế SDĐ nông nghiệp phải nộp của người được giao đất.

Thật không công bằng, trong khi người dân Vinh Quang như ông Nham, ông Bìa, không được giao đất lại phải thuê lại của ông Vươn xã Bắc Hưng với mức giá cao trên 20 lần tiền thuế SDĐ nông nghiệp tính cho mỗi ha.

Việc giao đất NTTS với diện tích lớn ở thời điểm hiện nay không phù hợp với Luật Đất đai năm 2003; phải chuyển từ hình thức giao đất sang cho thuê đất để sử dụng đất có hiệu quả và đảm bảo công bằng xã hội.

6-Về một số vấn đề liên quan khác:

Một số bản tin ca tụng ông Đoàn Văn Vươn có công lớn đầu tư đắp đê, trồng rừng bảo vệ cuộc sống yên bình cho người dân Vinh Quang không phải lo bão lũ, coi ông Vươn như là “người hùng lấn biển” là không đúng bản chất.

-Như đã nêu trên, Nhà nước đầu tư hàng chục tỷ đồng để tiếp tục khai hoang, lấn biển, trong đó vùng đầm của ông Đoàn Văn Vươn cũng được đầu tư  hàng tỷ đồng, được làm đường công vụ, đê bao, được trồng rừng phòng hộ. Bản thân ông Vươn tham gia khoanh bờ, tạo ao để khai thác và NTTS.

-Trong thời gian sử dụng đất ông Đoàn Văn Vươn đã phá rừng phòng hộ, lấn chiếm đất, vi phạm Pháp lệnh Đê điều… đều đã bị lập biên bản và xử lý, xử phạt vi phạm hành chính và phải bồi thường trồng lại rừng phòng hộ. Đồng thời ông Vươn còn soạn thảo và phát tán văn bản kêu gọi những người NTTS nước lợ phá hoại việc thực hiện chính sách kinh tế-xã hội, Công an huyện Tiên Lãng đã có báo cáo kết quả điều tra về Công an thành phố Hải Phòng. 

Trên đây là một số vấn đề liên quan đến việc thu hồi vùng thuỷ sản đã hết hạn giao đất đối với ông Đoàn Văn Vươn, UBND huyện tổng hợp để các cơ quan, đơn vị, địa phương nắm được thực chất sự việc và tuyên truyền để cán bộ và nhân dân hiểu rõ.”
Tuấn Nam