Chuyên gia chỉ ra những vấn đề về quản trị trường đại học công lập Việt Nam

06/10/2024 06:23
Thu Trang
0:00 / 0:00
0:00

GDVN -Nhiều người lo ngại rằng liệu AI sẽ thay thế hoàn toàn con người và thay thế vai trò của người thầy trên lớp?

AI không thể thay thế được các giảng viên người thật

Tại hội thảo quốc gia về khoa học giáo dục 2024, Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Văn Minh - nguyên Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Hà Nội nêu một số vấn đề về đào tạo giáo viên trong kỷ nguyên công nghệ số.

Công nghệ số tác động tới mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội, đòi hỏi việc đổi mới giáo dục - đào tạo phải gắn bó chặt chẽ với tiến bộ khoa học - công nghệ.

Năm 2020, đại dịch do COVID-19 gây ra, quá trình buộc thích ứng chuyển đổi số trong lớp học diễn ra nhanh chóng chỉ sau một đêm khi các trường học phải đóng cửa và các bài học chuyển sang trực tuyến….

Vì vậy, người ta lo lắng năng lực của giáo viên và các công cụ đo lường các năng lực này trong phạm vi quá trình số hóa sẽ có hiệu quả trong việc đảm bảo chất lượng giáo dục hay không? Đồng thời, tâm thế cũng như khả năng của học sinh, giáo viên với quá trình chuyển đổi đều bị đặt dấu hỏi.

Cách đây không lâu, Đại học Khoa học và Công nghệ Hồng Kông (HKUST) là một trong những trường đầu tiên ở châu Á đã tạo ra 10 giảng viên AI có quốc tịch khác nhau, nền tảng văn hóa đa dạng đến từ nhiều nơi trên thế giới và đưa vào sử dụng cho việc hỗ trợ giảng dạy cho sinh viên.

Vì vậy đã có những lo ngại rằng liệu AI sẽ thay thế hoàn toàn con người của chúng ta và thay thế vai trò của người thầy trên lớp.

Thực tế, AI có thể giúp sinh viên trải nghiệm các chủ đề trong môi trường thực tế ảo nhiều hơn, ví dụ các thí nghiệm mà khó có thể được nhìn thấy trực tiếp ở môi trường thế giới thực.

Chính vì vậy, AI không thể thay thế được giảng viên người thật vì những cảm xúc mà họ có thể mang đến cho người học.

Theo thầy Minh, có thể hiểu, chuyển đổi số trong giáo dục là ứng dụng công nghệ kỹ thuật số và hệ thống thông tin internet vào lĩnh vực giáo dục để nâng cao chất lượng giảng dạy, học tập và quản lý giáo dục. Bao gồm cải tiến phương pháp giảng dạy, cải tiến các thiết bị, dụng cụ hỗ trợ học tập, nâng cao trải nghiệm của học sinh, sinh viên và người tham gia đào tạo.

Chuyển đổi số giúp tạo ra môi trường học tập nơi mà mọi thứ kết nối với nhau. Sự kết hợp mới mẻ của công nghệ, bảo mật nhằm thu hẹp khoảng cách địa lý để tạo ra trải nghiệm trong học tập, đồng thời tăng cường sự tương tác của mọi người.

Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Văn Minh - nguyên Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Văn Minh - nguyên Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Hà Nội

Bàn về những cơ hội chuyển đổi số trong giáo dục, thầy Minh chia sẻ, thực hiện nhiệm vụ xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu đáp ứng yêu cầu của cách mạng công nghiệp lần thứ tư, Chính phủ triển khai băng thông rộng chất lượng cao trên toàn quốc, bảo đảm tính liên tục và dự phòng; xây dựng và phát triển đồng bộ hạ tầng dữ liệu quốc gia.

Cũng như hoàn thiện một nền tảng dạy và học trực tuyến quốc gia tích hợp kho học liệu số hỗ trợ 100% người học và nhà giáo tham gia có hiệu quả các hoạt động giáo dục trực tuyến; đáp ứng yêu cầu về tài liệu học tập cho toàn bộ chương trình giáo dục phổ thông

Đồng thời đổi mới sáng tạo trong dạy và học; nâng cao chất lượng, cơ hội tiếp cận giáo dục; xây dựng nền giáo dục mở thích ứng trên nền tảng số.

Các chính sách kể trên kèm theo đầu tư nguồn lực từ chính phủ về hạ tầng giáo dục số, giải pháp công nghệ dạy học đồng bộ, một mặt mở ra cơ hội đột phá trong đổi mới hoạt động giáo dục và đào tạo; đổi mới quản lý nhà nước trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo theo tinh thần của Nghị quyết số 29-NQ/TW. Mặt khác, nó đặt ra yêu cầu cao về phẩm chất, năng lực đối với đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lí giáo dục. Hơn nữa, chuyển đổi số trong giáo dục cần có sự thay đổi nhận thức mạnh mẽ, sự chỉ đạo quyết liệt của các cấp quản lý, sự chủ động, tích cực của các cơ sở giáo dục và sự ủng hộ, tham gia của mỗi người học, mỗi nhà giáo và toàn xã hội.

Trước bối cảnh chuyển đổi số và yêu cầu đổi mới giáo dục đại học, thách thức kép đặt ra đối với các trường sư phạm là: Trường sư phạm sẽ thực hiện chuyển đổi số như thế nào? Lộ trình thực hiện ra sao? Cần nguồn lực gì? Trường sư phạm cần đổi mới chương trình đào tạo và các điều kiện thực hiện chương trình như thế nào để sinh viên sư phạm sau khi tốt nghiệp có thể đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số ở trường phổ thông?

Từ những cơ hội và thách thức, Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Văn Minh đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả đào tạo giáo viên ở Việt Nam trong kỷ nguyên công nghệ số như: đổi mới chương trình đào tạo giáo viên; đầu tư nguồn lực, tăng cường điều kiện tổ chức đào tạo; xây dựng hệ thống quản lý tổng thể, liên thông dữ liệu giữa các trường sư phạm; nâng cao nhận thức, đào tạo đội ngũ; huy động các nguồn lực tham gia chuyển đổi số trong giáo dục và đào tạo; hoàn thiện cơ chế, chính sách thúc đẩy chuyển đổi số.

Bên cạnh việc đảm bảo số lượng nhân lực cho các ngành, nghề cần chú trọng hơn nữa vào chất lượng, hiệu quả. Đối với mạng lưới trường sư phạm, càng phải tập trung đào tạo đội ngũ giáo viên trình độ cao, phát triển năng lực tự học, thích ứng và sáng tạo. Bởi lẽ đội ngũ này có tác động đáng kể đến hàng chục triệu học sinh - thế hệ trẻ, lực lượng lao động kế cận trong tương lai gần của đất nước.

Quản trị mà không giám sát, không đánh giá thì coi như không quản trị

Cũng tại hội thảo, Giáo sư, Tiến sĩ Đinh Xuân Khoa - nguyên Hiệu trưởng Trường Đại học Vinh cũng đã nêu một số vấn đề về quản trị trường đại học công lập Việt Nam.

Theo thầy Khoa, giáo dục nước ta và thế giới ngày càng trở nên đa dạng một cách chưa từng có. Khả năng tự đổi mới mình trở thành khả năng sống còn của mọi trường đại học, trong đó quan trọng nhất là đổi mới thiết chế quản trị trường đại học. Tuy nhiên, các trường đại học công lập Việt Nam hiện đang gặp khó khăn trong việc xây dựng mô hình quản trị đại học trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.

Bàn về khái niệm quản trị trường đại học, thầy Khoa chia sẻ, từ những năm 1980 trở lại đây, định nghĩa về quản trị đại học được mở rộng hơn. Bên cạnh đó, nội hàm của uản trị đại học cũng khác nhau tùy thuộc vào cấp độ phân tích mà mỗi tổ chức thực hiện. Tuy nhiên cho đến nay, vẫn chưa có một định nghĩa nào hoàn toàn bao quát được bản chất đa dạng, nhiều mặt của quản trị đại học.

Ở đây, khái niệm quản trị đại học được hiểu là quá trình tổ chức, vận hành, kiểm soát hoạt động của trường đại học nhằm đạt được mục tiêu quản trị một cách tối ưu nhất. Quản trị đại học gắn liền với việc xây dựng, tập hợp hệ thống quy tắc/luật lệ và hệ thống khen thưởng/kỷ luật trong nhà trường; xác định các mối quan hệ về thẩm quyền, quy định những cách thức tổ chức và khuyến khích sự phục tùng/đồng thuận với các chính sách và thủ tục được ban hành.

Quản trị trường đại học công lập nhằm những mục tiêu sau đây: Định hướng hoạt động quản lý trường đại học công lập; Xây dựng môi trường giáo dục đại học dân chủ, công khai và đổi mới sáng tạo; Cung cấp dịch vụ giáo dục đại học chất lượng cao. Ngoài ra, mục tiêu quản trị trường đại học công lập còn nhằm: Đảm bảo thích nghi với sự thay đổi của các yếu tố bên ngoài; nâng cao thương hiệu; tạo điều kiện để hội nhập sâu với các trường đại học tiên tiến trong khu vực và trên thế giới.

“Quản trị mà không giám sát, không đánh giá thì coi như không quản trị”, thầy Khoa nêu quan điểm.

Giáo sư, Tiến sĩ Đinh Xuân Khoa - nguyên Hiệu trưởng Trường Đại học Vinh
Giáo sư, Tiến sĩ Đinh Xuân Khoa - nguyên Hiệu trưởng Trường Đại học Vinh

Nêu ra những phương thức quản trị trường đại học công lập, Giáo sư, Tiến sĩ Đinh Xuân Khoa cho biết, phương thức quản trị trường đại học công lập có 3 trụ cột: Tự chủ đại học, trách nhiệm giải trình và đảm bảo chất lượng giáo dục.

Bên cạnh đó, chủ thể quản trị trường đại học công lập bao gồm: Đảng ủy, Hội đồng trường và Hiệu trưởng. Việc phân định một cách rạch ròi vai trò của các chủ thể này rất khó vì có sự đan xen, thẩm thấu và thống nhất trong một con người.

Bàn về Hội đồng trường trong trường đại học công lập, thầy Khoa chia sẻ, chỉ khi nào những người lãnh đạo cao nhất trong trường đại học có quyết tâm chính trị mạnh mẽ; thống nhất quyền lực vì mục tiêu quản trị hiệu quả thì khi đó mô hình quản trị bởi Hội đồng trường mới phát huy được và phát huy hết vai trò của mình.

Và chỉ khi nào Hội đồng trường có đủ năng lực và quyền lực mới tạo ra đươc những quyết định tối ưu và kiểm soát quyền lực một cách hiệu quả và khi đó sẽ có phát triển có tính đột phá trong giáo dục đại học. Trách nhiệm của Hội đồng trường hết sức nặng nề. Để thành công trong bối cảnh thế giới hiện nay, các trường phải nắm bắt cơ hội, điều chỉnh và thích ứng, cải cách và phát triển. Hội đồng trường vì thế không phải được lập ra chỉ để quản lý hoạt động của hiệu trưởng mà là để quản lý sự thay đổi. Bằng cách xác định vai trò của nó như là một tác nhân thay đổi, Hội đồng trường sẽ thiết lập bối cảnh cho các sáng kiến ở nhiều cấp độ khác nhau bên trong trường đại học.

Bàn về tự chủ trong đại học, thầy Khoa cho biết, từ lâu, tự chủ đại học đã trở thành xu thế phát triển của giáo dục đại học thế giới. Mục tiêu tự chủ trong trường đại học công lập, trước hết là nhằm phát huy năng lực đổi mới và sáng tạo.

Thực hiện tự chủ, các trường sẽ có một “không gian rộng lớn” cho sự đổi mới và sáng tạo. Trong “không gian rộng lớn” đó, mức độ đổi mới và sáng tạo của các trường như thế nào lại phụ thuộc năng lực của các nhà quản trị và đội ngũ giảng viên, chuyên viên.

Tuy nhiên, để tự chủ thì cần xây dựng lộ trình, chuẩn bị các điều kiện cần thiết về nhận thức, nguồn lực, cơ chế, chính sách cho tự chủ đại học.

Bên cạnh đó, Nhà nước và bộ chủ quản phải ban hành các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn nhằm tạo hành lang pháp lý cho hoạt động tự chủ của trường đại học công lập.

Tự chủ đại học được hiểu một cách khái quát đó là sự chủ động quyết định của trường đại học trên một số lĩnh vực, một số nội dung, một số hoạt động phù hợp với quy định của pháp luật và định hướng chiến lược của nhà trường.

Tuy nhiên tự chủ đại học luôn gắn với trách nhiệm giải trình của cơ sở giáo dục đại học. Luật Giáo dục đại học 2018 đã chính thức dùng từ “trách nhiệm giải trình” thay cho từ “tự chịu trách nhiệm” hoặc “trách nhiệm xã hội” vẫn dùng trước đây. Vì thế, càng tự chủ cao bao nhiêu, trách nhiệm giải trình càng lớn bấy nhiêu. Thực hiện trách nhiệm giải trình với tư cách là một phương thức quản trị, đòi hỏi các trường phải xác định rõ đối tượng cần phải giải trình, nội dung, cơ chế và phương tiện giải trình.

Giáo sư, Tiến sĩ Đinh Xuân Khoa cũng thông tin tại phần thảo luận, trao đổi rằng, trong trường đại học công lập, quản trị giữ vai trò quan trọng trong việc tạo nên thành công, gắn kết trường với các bên liên quan, làm tăng sự đồng thuận và hạn chế những bất đồng bên trong.

Tuy nhiên, hiện nay, hoạt động quản trị trong các trường đại học công lập còn đang có những hạn chế, bất cập về thực hiện mục tiêu, nội dung, phương thức quản trị; về phát huy vai trò của các chủ thể quản trị.

Nguyên nhân chính của những hạn chế, bất cập này là chưa giải quyết tốt các vấn đề về phân quyền và thực thi quyền lực trong trường đại học công lập; về phát huy vai trò của Hội đồng trường trong quản trị trường đại học công lập; về tự chủ và trách nhiệm giải trình; về mô hình và cơ chế quản trị trường đại học công lập.

Thu Trang