Cả “khu ổ chuột” này có khoảng hơn chục hộ gia đình đến từ khắp các tỉnh thành khác nhau như Hưng Yên, Thái Bình, Thanh Hóa, Nam Định… Do cuộc sống ở quê khó khăn, họ lên Hà Nội mưu sinh và chấp nhận cảnh sống trong muôn vàn khó khăn này để tiết kiệm các chi phí sinh hoạt.
Mỗi người một nghề, người thì thu mua đồng nát, người chạy xe ôm, người bán xôi, người làm đậu phụ, người làm công nhân…
Khu nhà trọ tổng cộng có hơn chục phòng, tất cả các phòng đều sử dụng chung một nhà vệ sinh duy nhất chật chội đến mức tối thiểu.
Phòng trọ 20m2 có giá 1 triệu đồng, phòng 12m2 có giá từ 500.000- 600.000, còn phòng bé hơn tầm 8m vuông thì có giá là 300.000, chi phí điện nước ở đây tương đối cao.
Ba thế hệ gia đình ông Vĩnh cùng sống dưới một mái nhà lụp xụp trong “khu ổ chuột” này, ông chia sẻ: “Cả gia đình sống bằng nghề làm đậu phụ nên cần phải thuê phòng rộng để đủ chỗ ở cho con cháu và chỗ để làm. Tôi thuê phòng này diện tích hơn 20m2 giá 1triệu/1tháng tiền nhà, điện 5nghìn/1số, nước dùng chính là nước giếng khoan, nước máy chỉ dám dùng để ăn thôi chứ 20nghìn/1m3 thì không có tiền mà trả, bọn trẻ con còn đi học nữa…”
Không chỉ sống trong cảnh ô nhiễm bẩn thỉu, thiếu nước sạch mà người dân nơi đây còn phải đối mặt với cả những mối nguy hiểm đe doạ đến tính mạng vì những con rắn.
Cô Lùng kể lại: “Nhà cái Lê ngay bên cạnh ngày trước có con rắn to trên mái nhà rơi xuống làm cả xóm hoảng sợ, lúc đầu thì cứ tưởng là chuột nó chạy trên mái nhà thôi vì chuột ở khu này thì nhiều vô kể, không ngờ lại là con rắn rơi vào nhà nên cũng sợ lắm, nhỡ rắn độc thì chết. Nhà bác Mai bên kia thì hôm cũng bị rắn bò xung quanh nhà khiếp lắm.”
Được biết khu ổ chuột này thuộc khu “Dự án Thể thao và vui chơi giải trí của thành phố Hà Nội”. Hiện tại thì đã giải quyết xong việc bồi thường đất đai và đến ngày 18/11/2013 là hết hạn di dời, tuy nhiên hạn di dời chỉ thông báo trước một tuần nên người dân ở đây vẫn chưa tìm được chỗ ở mới.
|
Khung cảnh xập xệ, cũ nát của “khu ổ chuột” cùng với bể giếng khoan - nơi tắm rửa, ăn uống, vệ sinh của tất cả mọi người. |
|
Túp lều với diện tích 12m2 có giá thuê là 500.000- 600.000 đồng/tháng |
|
Các phòng được ghép bằng những miếng ván và fibro xi măng cũ rích, bên ngoài bọc các bạt nylon rách nát, xập xệ |
|
Bên trong nhà ông Vĩnh nơi gia đình làm đậu phụ chật trội và bẩn thỉu, đồ đạc chất đầy nhà và ẩm ướt |
|
Do diện tích quá bé nên mọi ngóc ngách trong nhà đều bị đồ đạc lấp kín, phòng thường không đủ ánh sáng ngay cả lúc ban ngày |
|
Tường nhà được ghép bằng các miếng fibro xi măng tạm bợ, không chắc chắn và thiếu an toàn |
|
Bể nước sinh hoạt ngay cạnh chuồng lợn, bên ngoài rêu xanh và váng nước vàng khè |
|
Lối vào “khu ổ chuột” đầy những xô đựng rác rất ôi nhiễm |
|
Nhà được bọc bởi các tấm bạt cũ rách rưới nên rắn rết thương xuyên bò vào nhà gây nguy hiểm đến cuộc sống của người dân |
|
Cửa nhà được ghép bởi các tấm gỗ cũ, mục nát, không chắc chắn |
|
Khóa cửa tạm bợ cùng với an ninh không tốt nên “khu ổ chuột” thường xuyên xảy ra mất cắp |
|
Người dân hàng ngày phải sống chung với mùi hôi thối bốc lên từ chuồng lợn của chủ nhà, lợn được thả rông ra ngoài nên rất mất vệ sinh |
|
Khung cảnh hoang tàn và tiêu điều nơi xóm nghèo |
|
Lối vào.... |
|
“Khu ổ chuột” là nơi tá túc và sinh sống qua ngày của những người lao động nghèo |
VĂN NGỌC