Đối với trẻ em vùng cao, học kỳ mưu sinh bắt đầu từ ngày các em chập chững theo mẹ đi nương |
và quen với công cụ lao động khi còn thơ ấu |
"Trường mần non” của bé khi theo mẹ đi đãi vàng |
Đi vùng cao Tây Bắc, qua các tuyến đường tỉnh lộ, bạn sẽ thấy rất nhiều cửa hang bán rau rừng do các em nhỏ làm chủ |
và cũng đon đả mời khách chuyên nghiệp đến mức nhói long |
Đứa lớn đã lam lũ mưu sinh, đứa bé cũng chập chững tiếp cận học kỳ này từ khi chưa rời bầu sữa mẹ |
Nhưng trẻ em vẫn là trẻ em, trong nhọc nhằn vẫn hồn nhiên đáng yêu |
Điều đáng để các nhà hoạch định giáo dục thí nghiệm hàng trăm phương án cải cách giáo dục vùng cao. Nhưng kết quả thì số thí sinh tham gia vào học kỳ này cứ nhiều lên và dài mãi ra |
“Học sinh” của học kỳ đặc biệt này được “đào tạo” ở rất nhiều lĩnh vực, từ nghề vớt củi đầy nguy hiểm trên song Đà vào mùa lũ... |
... đến những ánh mắt đầy niềm vui khi tìm thấy vàng cặn trên bãi vàng |
“Một tiết học” của học kỳ mưu sinh không có giờ giấc, thông thường bắt đầu từ khi mặt trời chưa mọc và kết thúc khi trăng bắt đầu lên trong 1 ngày |
Mưu sinh trên sông Đà mùa lũ... |
... và đã phải kiếm tiền lẻ từ khi còn bé thơ |
Ở vùng cao, trẻ em bị rằng buộc rất nhiều hủ tục, có vùng đã tập tọe kéo vợ từ khi 13. Và từ đó, học kỳ mưu sinh càng nặng nhọc và vất vả hơn khi phải lo cho một gia đình |
Điều kiện học tập và cơ sở vật chất đối với các trường vùng cao còn thiếu thốn cũng là một yếu tố để học sinh từ học kỳ chính gia nhập học kỳ mưu sinh ngày càng nhiều hơn |
Có rất Nhiều gia đình ở vùng cao Tây Bắc, bố mẹ và các con cùng là “học sinh” của học kỳ mưu sinh. Học kỳ đặc biệt này không được cấp bằng cấp, có em đến cuối đời vẫn chưa qua được học kỳ này và giấc mơ về con chữ vẫn mãi chỉ là giấc mơ |