Tàu ngầm lớp Soryu Nhật Bản tiên tiến nhất và lớn nhất thế giới

19/11/2014 14:50
Việt Dũng
(GDVN) - Để ngăn chặn Liên Xô, Nhật Bản được Mỹ trợ giúp phát triển tàu ngầm, tốc độ đổi mới thế hệ tàu ngầm của Nhật Bản đáng kinh ngạc, số lượng có thể tăng mạnh...
Tàu ngầm tấn công thông thường lớp Harushio Nhật Bản
Tàu ngầm tấn công thông thường lớp Harushio Nhật Bản

Tờ "Giải phóng quân" Trung Quốc ngày 15 tháng 11 đăng bài viết "Sát thủ Soryu lặn bí mật" của các tác giả Cung Xuân Khoa, Dương Bồi.

Bài viết cho rằng, gần đây, truyền thông Nhật Bản công khai hình ảnh hạ thủy của tàu ngầm Tateryu (Nhân Long/Thần Long) động cơ AIP lớp Soryu mới nhất của Lực lượng Phòng vệ Biển, đây đã là chiếc tàu ngầm lớp Soryu thứ 7 của Lực lượng Phòng vệ Biển Nhật Bản.

Những năm gần đây, tàu ngầm lớp này của Nhật Bản lần lượt hạ thủy và biên chế với tốc độ mỗi năm 1 chiếc. Tàu ngầm lớp Soryu thu hút sự quan tâm của một số quốc gia do nó có tính năng ưu việt. Được biết, Chính phủ Australia đang thảo luận mua sắm một lô tàu ngầm lớp này từ Nhật Bản để thay thế cho tàu ngầm động cơ thông thường lớp Collins đang ngày càng lão hóa.

Tàu ngầm cấp Soryu rốt cuộc có những điểm "hơn người" nào? Tại sao có thể giành được sự ưu ái của Australia? Trong tương lai xu thế phát triển của tàu ngầm Nhật Bản như thế nào?

Giỏi lặn, thân lớn, tiếng ồn nhỏ

Căn cứ vào quy tắc đặt tên của tàu chiến Nhật Bản, tàu ngầm thông thường sử dụng tên của khí tượng biển hoặc động vật điềm lành để đặt tên, chẳng hạn tên của tàu ngầm lớp Soryu đặt theo tên của động vật điềm lành.

Tàu ngầm thông thường AIP lớp Soryu do Nhật Bản chế tạo
Tàu ngầm thông thường AIP lớp Soryu do Nhật Bản chế tạo

Tàu ngầm lớp Soryu là tàu ngầm tiên tiến nhất hiện nay của Lực lượng Phòng vệ Biển Nhật Bản, nhiệm vụ chủ yếu của nó gồm chống tàu ngầm, đặt mìn và thu thập tình báo, là một loại tàu ngầm thông thường đa năng cỡ lớn vừa có thể thực hiện nhiệm vụ tuần tra cảnh giới biển gần, vừa thích hợp với tác chiến biển xa.

Tàu ngầm lớp Soryu có rất nhiều ưu điểm như thể tích lớn, tiếng ồn nhỏ, thời gian lặn dài, tính ổn định tốt, thậm chí được gọi là một trong những tàu ngầm thông thường tiên tiến nhất trên thế giới.

Sử dụng hệ thống AIP là tiêu chí rõ rệt để tàu ngầm lớp Soryu khác với các tàu ngầm lớp khác của Nhật Bản. Động lực chính của tàu ngầm thông thường dựa vào động cơ diesel và bình ắc quy cung cấp, sự vận hành của động cơ diesel cần không khí, vì vậy trong thời gian lặn dưới nước, tàu ngầm chủ yếu dựa vào bình ắc quy để cung cấp động lực.

Lượng điện của bình ắc quy thường chỉ có thể duy trì thời gian lặn trên 1 ngày, sau đó tàu ngầm phải bước vào “trạng thái ống thông khí” trước khi lượng điện dùng hết, khi đó, tàu ngầm phải lặn đến độ cao để ống thông khí của động cơ diesel nhô lên mặt nước, dựa vào động cơ diesel cung cấp động lực là nạp điện cho bình ắc quy. Độ sâu lặn của tàu ngầm ở trạng thái này thường chỉ hơn 10 m, rất dễ bị địch phát hiện.

Trong khi đó, tàu ngầm lớp Soryu đã áp dụng công nghệ động cơ Stiring của Thụy Điển, cốt lõi của công nghệ này chính là tự mang theo ô xi lỏng và nhiên liệu, từ đó làm cho động cơ thoát khỏi sự lệ thuộc vào không khí, làm cho thời gian lặn của tàu ngầm có thể lên tới 2 - 3 tuần.

Tàu ngầm thông thường AIP Kokuryu số hiệu SS-506 lớp Soryu của Nhật Bản, hạ thủy ngày 31 tháng 10 năm 2013.
Tàu ngầm thông thường AIP Kokuryu số hiệu SS-506 lớp Soryu của Nhật Bản, hạ thủy ngày 31 tháng 10 năm 2013.

Tàu ngầm lớp Soryu là tàu ngầm thông thường có kích cỡ lớn nhất trên thế giới hiện nay, lượng giãn nước tiêu chuẩn là 2.950 tấn, lượng giãn nước tối đa đạt 4.200 tấn.

Thân tàu lớn có thể chứa nhiều thiết bị, nhiên liệu hơn, giúp cho tàu ngầm lớp này có năng lực chạy liên tục mạnh hơn, có thể phối hợp với tàu chiến Lực lượng Phòng vệ Biển Nhật Bản thực hiện nhiệm vụ bảo vệ tuyến đường giao thông trên biển, trong thời chiến còn có thể thực hiện nhiệm vụ tác chiến liên hợp với hải quân đồng minh trong khuôn khổ bảo đảm an ninh Mỹ-Nhật.

Công nghệ giảm tiếng ồn của tàu ngầm lớp này cũng đứng vị trí số một, tàu ngầm không chỉ đã lắp gạch giảm âm (anechoic tile) vào bề mặt thân tàu, mà còn lắp toàn bộ thiết bị máy móc ở nền hình bè, nền này kết nối linh hoạt với thân tàu, từ đó làm cho tiếng ồn của thiết bị không dễ truyền ra ngoài tàu. Chỉ riêng thiết kế này đã làm cho tiếng ồn của tàu ngầm giảm 15 - 20 đê-xi-ben.

Thân tàu hình "xì gà" và đuôi hình X làm cho thân tàu khỏe khoắn, linh hoạt hơn. So với hình "giọt nước" truyền thống, không gian bên trong của tàu ngầm lớp Soryu lớn hơn, hơn nữa trở lực bên ngoài nhỏ hơn, khả năng chịu áp suất mạnh hơn. Điều đáng chú ý là, đặc điểm lớn nhất của bánh lái đuôi hình X là có thể lần lượt tiến hành điều khiển nhỏ đối với 4 hệ thống lái, có thể bảo đảm cho tàu ngầm tiến hành hoạt động tự do ba chiều trong không gian lặn.

Do hình X phức tạp hơn công nghệ điều khiển bánh lái đuôi hình chữ thập, vì vậy, tàu ngầm lớp Soryu sẽ lệ thuộc vào công nghệ điều khiển máy tính tiên tiến hơn, điều này đã phản ánh tàu ngầm lớp này đã được cải tiến và nâng cao so với tàu ngầm lớp Oyashio trên phương diện công nghệ điều khiển tự động.

Tàu ngầm thông thường AIP Tateryu (Thần Long) lớp Soryu Nhật Bản hạ thủy ngày 8 tháng 10 năm 2014
Tàu ngầm thông thường AIP Tateryu (Thần Long) lớp Soryu Nhật Bản hạ thủy ngày 8 tháng 10 năm 2014

Nghiên cứu phát triển mới

Nhật Bản nghiên cứu chế tạo, sử dụng tàu ngầm có thể ngược dòng đến thời kỳ chiến tranh Nhật-Nga. Đầu thế kỷ 20, Nhật Bản đã nhập khẩu 5 tàu ngầm của Mỹ, đã thành lập biên đội tàu ngầm đầu tiên. Sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, công nghệ chế tạo sử dụng tàu ngầm của Nhật Bản đã tương đối hoàn thiện, có rất nhiều đổi mới về tư tưởng thiết kế và chức năng tác chiến.

Chẳng hạn, Nhật Bản từng sử dụng tàu ngầm mang theo máy bay oanh tạc lãnh thổ Mỹ. Nhưng do ảnh hưởng của tư duy "tàu to pháo lớn", khi đó tàu ngầm Nhật Bản hoàn toàn không được thực sự coi trọng, phần lớn dùng để thực hiện một số nhiệm vụ như vận chuyển binh sĩ và lương thực.

Sau khi kết thúc Chiến tranh thế giới lần thứ hai, Mỹ nghiêm cấm Nhật Bản chế tạo tàu ngầm. Vào thập niên 50 của thế kỷ trước, do muốn thông qua Nhật Bản ngăn chặn Liên Xô, Mỹ mới hủy bỏ hạn chế và trợ giúp Nhật Bản chế tạo, phát triển lực lượng tàu ngầm, nhưng, tàu ngầm phần lớn là lấy phiên bản phòng vệ duyên hải làm chính.

Mãi đến thập niên 70 của thế kỷ trước, tàu ngầm Nhật Bản mới bắt đầu phát triển nhanh và có hệ thống, bình quân cứ 5 - 10 năm đưa ra một kế hoạch chế tạo, đã nghiên cứu chế tạo ra gần 10 loại tàu ngầm như lớp Uzushio, lớp Yushio, lớp Harushio và lớp Oyashio.

Tàu ngầm thông thường lớp Oyashio Nhật Bản
Tàu ngầm thông thường lớp Oyashio Nhật Bản

Chiếc tàu ngầm lớp Soryu đầu tiên - cũng mang tên là Soryu bắt đầu được chế tạo vào tháng 3 năm 2005, hạ thủy vào năm 2007, biên chế tháng 3 năm 2009; sau đó lần lượt biên chế các tàu ngầm lớp này mang tên là Unryu, Hakuryu, Kenryu, Zuiryu, Kokuryu và Tateryu (Nhân Long). Căn cứ vào kế hoạch tàu ngầm của Nhật Bản, tàu ngầm lớp Soryu tổng cộng chế tạo 9 chiếc, hiện nay còn có 2 chiếc đang chế tạo, dự tính năm 2018 có thể biên chế toàn bộ.

Tham vọng to lớn

Hiện nay, công tác chế tạo tàu ngầm cấp Soryu của Nhật Bản đã gần kết thúc, kế hoạch đóng tàu mới đang được chuẩn bị. Nhìn vào các thông tin đã nắm được hiện  nay, sự phát triển trong tương lai có 3 phương hướng:

Số lượng nhiều hơn

Từ thập niên 70 của thế kỷ trước đến nay, Nhật Bản bị ràng buộc bởi Hiến pháp hòa bình, số lượng tàu ngầm luôn duy trì khoảng 16 chiếc. Những năm gần đây, tiến trình “hữu khuynh hóa chính trị” Nhật Bản không ngừng đẩy nhanh, do ảnh hưởng bởi dỡ bỏ lệnh cấm quyền tự vệ tập thể và "Ba nguyên tắc xuất khẩu vũ khí", Bộ Quốc phòng Nhật Bản có kế hoạch đến năm 2020 sẽ mở rộng quy mô tàu ngầm lên 22 chiếc.

Tàu ngầm thông thường AIP lớp Soryu do Nhật Bản chế tạo
Tàu ngầm thông thường AIP lớp Soryu do Nhật Bản chế tạo

Hơn nữa, cộng với thời gian hoạt động của tàu ngầm nghỉ hưu Nhật Bản về cơ bản đều khoảng 16 năm, thấp xa so với tiêu chuẩn 30 năm thông thường, sau khi nghỉ hưu vẫn không lỗi thời. Trong mấy chục năm tới, trên cơ sở duy trì tốc độ đóng tàu hiện có, Nhật Bản thông qua kéo dài thời hạn hoạt động, sẽ làm cho số lượng tàu ngầm nhiều hơn.

Cỡ lớn hơn

Ngay từ thời kỳ Chiến tranh thế giới lần thứ hai, Nhật Bản đã có kinh nghiệm chế tạo tàu ngầm trọng tải lớn có thể mang theo máy bay. Từ Soryu đến Tateryu, trọng tải của tàu ngầm Nhật Bản ngày càng lớn, tàu ngầm Nhật Bản trong tương lai sẽ duy trì xu thế này, cung cấp nền tảng lớn hơn cho ứng dụng nhiều hơn công nghệ mới, lắp nhiều trang bị và vũ khí mới hơn.

Công nghệ tốt hơn

Ngay từ khi chiếc tàu ngầm lớp Soryu đầu tiên hạ thủy, Nhật Bản đã bắt đầu thông qua các phương thức như tự chủ nghiên cứu phát triển hoặc hợp tác, sử dụng công nghệ mới trong quy hoạch, thiết kế và chế tạo tàu ngầm lớp tiếp theo.

Những công nghệ mới này có thể gồm có hệ thống định vị thủy âm thế hệ mới, công nghệ AIP mới v.v… Trên phương diện vũ khí trang bị, lắp thêm ngư lôi mới G-RX6 và tên lửa chống hạm..., việc sử dụng công nghệ mới đã làm cho tính năng tổng thể của tàu ngầm có bước nhảy về chất.

Biên đội tàu ngầm, tàu nổi của Lực lượng Phòng vệ Biển Nhật Bản
Biên đội tàu ngầm, tàu nổi của Lực lượng Phòng vệ Biển Nhật Bản
Việt Dũng