Giáo dục Đại học Việt Nam chậm cải tổ

04/09/2013 07:04
Nguyễn Thiện Tống
(GDVN) - Sau khi các đại học được thu học phí, số lượng sinh viên đại học Việt Nam trong thập niên 1990 gia tăng đột biến lên 5,6 lần với tốc độ ào ạt gần 20% mỗi năm. Hậu quả là chất lượng giảm sút hết sức trầm trọng.
Giáo dục  đại  học  Việt  Nam  đã không đổi  mới  nhanh  chóng  để  đáp ứng  và hỗ  trợ  kịp  thời  cho  giai  đoạn  phát  triển  nhanh về  kinh  tế  xã hội vừa qua. Giáo dục đại học Việt Nam hầu như không phát triển trong thập niên 1980 vì ngân sách cho giáo dục đại học miễn phí rất eo hẹp. 
Quản lí chồng chéo, phân tán và thiếu thống nhất Trong  12  năm vừa  qua,  số  lượng  sinh  viên tăng 2,4 lần  với  tốc  độ  bình quân 8,4% mỗi năm, trong khi các điều kiện về đội ngũ giảng viên, cơ sở vật chất - kỹ thuật chưa phát triển đủ để bảo đảm chất lượng đào tạo. Nhiều  vấn  đề  của  giáo  dục  đại  học  có  nguồn  gốc  từ  sự  thiết  hụt  trầm trọng nguồn tài chính và quyền tự  trị  đại học. Học phí  là nguồn thu  đáng kể  cho  giáo  dục  đại  học.  Ở  Việt  Nam  nguồn  thu  từ  học  phí  chiếm  40% tổng  thu  của  các  trường  đại  học  công  lập.  Vấn  đề  khiếm  dụng và thất nghiệp  trí  thức  lại  càng trầm  trọng  ở  Việt  Nam  khi  cơ cấu  tổ  chức  giáo dục  đại  học  và chương trình đào tạo lạc  hậu  không  phù hợp  cho  tình trạng  đổi  mới  kinh  tế  và xã hội.  Bằng  chứng  là sự  cách  biệt  giữa  khả năng chuyên môn và ngành nghề của những người tốt nghiệp đại học với nhu cầu kỹ năng mới của thị trường.
Ảnh mang tính chất minh họa.
Ảnh mang tính chất minh họa.
“Chiến  lược  phát  triển  giáo  dục  2011-2020”chưa đưa ra biện  pháp giải  quyết  được  mâu  thuẫn  giữa  phát  triển  số  lượng  với  nâng  cao  chất lượng. Vì thế  cần  phân  tích  để  thấy  rõ rằng  cuộc  khủng  hoảng  kép  về  số lượng  và chất  lượng  của  giáo  dục  đại  học  nước  ta  kéo  dài trong hơn hai thập  kỷ qua có nguyên nhân chủ  yếu  ở  việc  tổ  chức  quản  lý  giáo  dục  đại học. Nhược  điểm  lớn  nhất  về  tổ  chức  quản  lý  của  hệ  thống  giáo  dục  đại học  là sự  phân  tán  trách  nhiệm quản  lý  cho  qua  nhiều  bộ  và nhiều  tỉnh thành chủ quản. Việc chia cắt các nhiệm vụ quản lý nhà nước về giáo dục đại  học  giữa Bộ  Giáo  dục  và Đào tạo  với  các  bộ  ngành khác đã làm cho việc  quản  lý  nhà nước  đối  với  hệ  thống  giáo  dục  chồng  chéo,  phân  tán, thiếu thống nhất. Do đó cần bải bỏ cơ chế Bộ  chủ quản đối với các cơ sở giáo dục đại học. Nhược  điểm lớn  thứ  hai  về  tổ chức  quản  lý  của  hệ thống  giáo  dục  đại học  là sự  tách  rời  giữa  các  trường  đại  học  và các cơ quan nghiên cứu khoa học.  Sự  tách  rời  này làm cho những  người  làm khoa học  ít  được tham gia giảng dạy và giảng viên đại học bị hạn chế tham gia việc nghiên cứu  khoa  học,  sinh  viên cũng ít được  tiếp  cận  những  nhà khoa học  giỏi. Chính sự  tách  rời  này làm cho trường  đại  học  chưa thực  sự  là trung tâm chất lượng về đào tạo và nghiên cứu khoa học. Nhược  điểm  lớn  thứ  ba  về  tổ  chức  quản  lý  của  hệ  thống  giáo  dục  đại học  nước  ta  là sự  phân  tán  của  quá  nhiều  học  viện  và trường  đại  học chuyên ngành riêng rẽ  với  các  chương trình đào tạo  quá  hẹp  theo  mô hình của  Liên Xô cũ.  Chính  việc  tổ  chức  quản  lý  các  trường  đại  học chuyên ngành có mục  tiêu đào tạo  nặng  về  kiến  thức  cụ  thể  theo  những tiểu  chuyên ngành rất  hẹp  mà người  sinh  viên không được  trang  bị  một nền  tảng  vững  chắc  về  giáo  dục  tổng  quát  cần  thiết  cho  việc  tự  học tập suốt  đời  và khả  năng  đáp  ứng  cao  với  môi  trường  làm việc  thay  đổi không ngừng trong tương lai. Hiện  nay  Việt  Nam  hầu  như không có các viện  đại  học  đa  lĩnh  vực loại  nghiên cứu  và tinh hoa trong đó bao gồm  các  viện  nghiên cứu  và phần  lớn  sinh viên là trên đại  học. Mặt khác Việt Nam  cũng rất thiếu các trường  đại  học  cộng  đồng  và cao đẳng  ở  các  tỉnh  thành để  đáp  ứng  nhu cầu  gia  tăng  sinh  viên đại  chúng  mà không làm giảm  chất  lượng  của  các viện đại học tinh hoa. Việt Nam vừa có Luật Giáo dục Đại học nhưng mô hình viện đại học đa lĩnh  vực  và quyền  tự  trị đại  học  chưa được  coi  trọng  nên giáo dục  đại học  sẽ  tiếp  tục  kém  hiệu  quả  và không đáp ứng  nhu  cầu  nhân  lực  của phát triển. Nếu  Việt  Nam  chỉ  có  những  đổi  mới  manh  mún  và chậm  chạp  mà không có chủ  trương và chính sách cải  tổ một  cách  cơ bản  hệ thống  giáo dục  đại  học  bằng  biện  pháp  sáp  nhập  và tái cấu  trúc  các  cơ sở  giáo  dục đại học thành các viện đại học đa lĩnh vực  được giao quyền  tự trị đại  học cao thì giáo dục đại học Việt Nam tiếp tục kém hiệu quả, kém chất lượng và không đáp ứng  nhu  cầu  nhân  lực  của  phát triển, rồi  biến  thành trở  lực cho phát triển.Chương trình đào tạo lạc hậu Công cuộc cải tổ kinh tế của Việt Nam sau những thành công đáng kể ban đầu  đã gặp  phải  những  vấn  đề  nan  giải  khác.  Công  cuộc  cải  tổ  kinh tế  phải được  tiếp  tục  tiến  hành và đồng  thời  các  lĩnh  vực  khác  cũng  phải được cải tổ mới mong Việt Nam phát triển nhanh và bền vững được. Một  trong  những  vấn  đề  nan  giải  đó  là sự  yếu  kém  về  số  lượng  và sự giảm  sút trầm  trọng  về  chất  lượng  ở  giáo  dục  đại  học, trong hơn hai thập kỷ  vừa  qua. Cuộc khủng hoảng  về  giáo  dục  đại học trong tình trạng  ngân sách cho giáo dục  rất  eo  hẹp  cũng  đã được  xác  định  từ  năm  1992  trong báo cáo “Phân Tích về  Giáo  Dục  và Tài Nguyên Nhân Lực”  do UNESCO cùng UNDP và Bộ Giáo Dục phối hợp nghiên cứu. Kinh nghiệm trên thế giới, nhất là ở các nước châu Á phát triển nhanh cho thấy  rằng  giáo  dục  đại  học  có  vai  trò cực  kỳ  quan  trọng  trong  tăng trưởng  kinh  tế và phát triển xã hội  thời đại hậu công  nghiệp. Nhu cầu cải tổ  giáo  dục  đại  học  Việt  Nam  để  đáp  ứng  những  thay  đổi  về  kinh  tế  xã hội  là quá rõ ràng. Giáo dục  đại  học  Việt  Nam  đã không đổi  mới  nhanh chóng để  đáp  ứng  và hỗ  trợ  kịp  thời  cho  giai  đoạn  phát  triển  nhanh  về kinh tế xã hội vừa qua. Một  tư tưởng  đổi  mới  đại  học  ở  nước  ta  đầu  thập  niên 1990 là chủ trương hình thành những  đại  học  đa  lĩnh  vực  theo  mô  hình đại  học  Anh Mỹ.  Đối  với  đa  số  những  nhà quản  lý  đại  học  Việt  Nam  thì đại  học  đa lĩnh  vực  là kiểu  mới,  liên kết  các  lĩnh  vực  khoa  học  tự  nhiên, khoa học công nghệ, khoa học xã hội. Tuy nhiên quá trình cải tổ tổ chức quản lý này đã rất chậm và nay vẫn chưa hoàn tất, thậm chí còn bị đảo ngược. Nếu  không  kịp  thời  có  những cải  tổ  lớn  lao  và căn bản,  hệ  thống  giáo  dục  đại  học  Việt  Nam  tiếp  tục kém hiệu  quả,  không  đáp  ứng  nhu  cầu  nhân  lực  của  phát triển,  rồi  biến thành trở lực cho phát triển. Vấn  đề  khiếm  dụng  và thất  nghiệp  trí  thức  lại  càng trầm  trọng  ở  Việt Nam khi cơ cấu tổ chức giáo dục đại học và chương trình đào tạo lạc hậu không phù hợp  cho  tình trạng  đổi  mới  kinh  tế  và xã hội.  Bằng  chứng là sự  cách  biệt  giữa  khả  năng  chuyên môn và ngành nghề  của  những  người tốt nghiệp đại học với nhu cầu kỹ năng mới của thị trường. Nhiều  vấn  đề  của  giáo  dục  đại  học  có  nguồn  gốc  từ  sự  thiết  hụt  trầm trọng nguồn tài chánh và quyền tự  trị  đại học. Học phí  là nguồn thu  đáng kể cho giáo dục đại học. Ở Việt Nam nguồn thu từ học phí chiếm khoảng 40% tổng thu của các trường đại học công lập. Trong công cuộc  cải  tổ  giáo  dục,  việc  tăng  thêm đầu  tư vật  chất  tài chính là điều  kiện  cần, nhưng chưa đủ. Tăng thêm tiền cho hệ thống giáo dục  đại  học  hiện  hữu  sẽ  không  tạo ra  kết  quả tốt  hơn, mà chỉ  nuôi dưỡng và duy trì sự quản trị yếu kém của hệ thống này thôi. “Chiến lược phát triển giáo dục 2011-2020”chưa đưa ra biện pháp giải quyết được mâu thuẫn giữa phát triển số lượng với nâng cao chất lượng giáo dục đại học, chưa có giải  pháp  triệt  để  cho  những  vấn  đề  cốt lõi về tổ chức và quản trị giáo dục đại học. Việt Nam vừa có Luật Giáo Dục Đại Học nhưng mô hình viện đại học đa lĩnh  vực  và quyền  tự  trị đại  học  chưa được  coi trọng  nên giáo dục  đại học  sẽ  tiếp  tục  kém  hiệu  quả  và không đáp ứng  nhu  cầu  nhân  lực  của phát triển. Vì thế  cần  phân  tích  để  thấy  rõ rằng  cuộc  khủng  hoảng  kép  về  số lượng  và chất  lượng  của  giáo  dục  đại  học  Việt  Nam kéo dài trong hơn hai thập  kỷ qua có nguyên nhân chủ  yếu  ở  việc  tổ  chức  quản  lý  hệ  thống giáo dục đại học và nghiên cứu khoa học.Bài tới: Khủng hoảng giáo dục Đại học Việt Nam
Nguyễn Thiện Tống