Nhiều trường e ngại tự chủ tài chính vì lo ngân sách Nhà nước “bỏ rơi"

27/01/2022 06:38
Phạm Minh
0:00 / 0:00
0:00
GDVN- Hệ thống hành lang pháp lý vẫn còn thiếu đồng bộ, chồng chéo, thậm chí là “rào cản” với các trường đại học trong quá trình xây dựng cơ chế tự chủ.

Bàn về vấn đề tự chủ tài chính gắn với đảm bảo chất lượng giáo dục đại học, phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam đã có cuộc trao đổi với Tiến sĩ Đỗ Ngọc Trâm – Giảng viên Học viện Ngân hàng.

Thưa Tiến sĩ Đỗ Ngọc Trâm, cô đánh giá như thế nào về việc thực hiện tự chủ tài chính cũng như chất lượng giáo dục của các trường đại học Việt Nam trong những năm qua?

Tiến sĩ Đỗ Ngọc Trâm: Khi Nhà nước khuyến khích các trường đại học công lập thực hiện tự chủ tài chính, vấn đề đặt ra không chỉ nằm ở việc tăng nguồn thu nào, bằng cách nào, chi tiêu nguồn thu đó ra sao mà chính là sự cộng sinh giữa việc tăng cường nguồn thu, sử dụng hiệu quả nguồn thu và đảm bảo chất lượng đại học.

Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/04/2006, sau đó là Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/2/2015 của Chính phủ, gần nhất là Nghị định 60/2021/NĐ- CP ngày 21/6/2021 đã nói đến việc giao quyền tự chủ tài chính cho các “đơn vị sự nghiệp dịch vụ công”, trong đó có các trường đại học. Bước đầu có sự chủ động về tài chính, tuy nhiên mức độ còn hạn chế, nhất là phần thu còn nhiều trói buộc.

Tiến sĩ Đỗ Ngọc Trâm cho rằng, một số nội dung trường đại học được phép tự chủ nhưng trên thực tế vẫn chưa thực hiện được. (Ảnh: NVCC)

Tiến sĩ Đỗ Ngọc Trâm cho rằng, một số nội dung trường đại học được phép tự chủ nhưng trên thực tế vẫn chưa thực hiện được. (Ảnh: NVCC)

Thời gian qua, việc tự chủ tài chính đại học ở nước ta thực ra mới chỉ là tự chủ “một phần”. Không thể phủ nhận các văn bản pháp lý của Nhà nước: Luật Giáo dục đại học, Luật Ngân sách Nhà nước, Luật Đầu tư công, Luật Viên chức… đã tạo hành lang pháp lý tốt hơn để các trường phát triển, song vẫn còn thiếu đồng bộ, chồng chéo thậm chí là “rào cản” với các trường đại học trong quá trình xây dựng cơ chế tự chủ.

Một số nội dung trường được phép tự chủ nhưng trên thực tế chưa thực hiện được, ví dụ như: việc sử dụng tài sản liên kết, hoạt động liên kết liên doanh để phát triển đào tạo khoa học công nghệ, tự chủ với các nguồn từ ngân sách nhà nước đầu tư nghiên cứu khoa học ứng dụng; hoặc việc có quy định về chính sách ưu đãi nhưng chưa có quy định và hướng dẫn cụ thể về đối tượng, mức ưu đãi nên việc thu hút nguồn lực xã hội cho nhà trường chưa được khơi thông.

Thêm vào đó, việc tự chủ tài chính của các trường đại học Việt Nam đang có sự phân hóa, với những trường tốp trên có tiềm lực tài chính, đội ngũ lãnh đạo, giảng viên tốt, uy tín cao thì thực hiện tự chủ dường như dễ dàng hơn so với các trường tốp dưới.

Cơ chế cấp và sử dụng ngân sách Nhà nước cho các trường đại học công lập có nhiều tiến bộ, song việc phân bổ kinh phí chủ yếu dựa trên các chỉ tiêu được giao từ trên như chỉ tiêu tuyển sinh, chỉ tiêu biên chế… mà chưa căn cứ vào kết quả đầu ra. Điều này vừa không tạo ra bình đẳng giữa trường công lập và trường ngoài công lập cung cấp dịch vụ tương tự, đồng thời chưa tạo áp lực cho các nhà trường công lập tăng cường tự chủ và nâng chất lượng đào tạo.

Nhiều trường còn e ngại việc tự chủ tài chính bởi tâm lý bị ngân sách Nhà nước “bỏ rơi” dù theo tinh thần chung các trường được giao quyền tự chủ đồng nghĩa với sự hỗ trợ của Nhà nước sẽ giảm dần các khoản chi thường xuyên, thay vào đó là các khoản hỗ trợ đầu tư dài hạn, hỗ trợ khâu trước và sau giai đoạn đào tạo đại học, và muốn nhận được sự hỗ trợ của Nhà nước các trường phải đổi mới năng lực quản trị của nhà trường để tận dụng hiệu quả nhất các nguồn lực; giải trình và chịu trách nhiệm trước xã hội, trước các cơ quan quản lý và trước người học; và tự xây dựng thương hiệu.

Về chất lượng đào tạo, trong những năm gần đây, chất lượng đại học được công bố dựa trên kết quả kiểm định và xếp hạng đại học trong nước được thực hiện bởi 5 Trung tâm được Bộ Giáo dục và đào tạo cấp phép thực hiện kiểm định.

Thời gian qua, dù với số lượng các trường đại học ngày càng tăng, số lượng sinh viên ngày càng nhiều, song chất lượng đào tạo tại một số cơ sở đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu hoặc chưa được chú trọng đúng mức.

Hầu hết các trường đều đạt chuẩn nhưng số tiêu chí đạt chuẩn không đồng đều cho thấy có sự chênh lệch trong chất lượng giữa các trường đại học.

Bên cạnh đó, tại không ít trường, công tác tuyển sinh trở nên dễ dãi, việc tuyển chọn giảng viên phù hợp quy mô đào tạo cũng bị lơi lỏng. Đây là nguyên nhân dẫn đến tình trạng thiếu giảng viên, hoặc giảng viên chưa đạt chuẩn. Chưa kể điều kiện cơ sở vật chất cũng không đáp ứng được yêu cầu của người học, chưa đáp ứng các tiêu chuẩn theo quy định của ngành giáo dục.

Còn tồn tại việc năng lực đào tạo thực tế của một số trường chưa đáp ứng các điều kiện đạt chuẩn, thậm chí góp phần tạo ra các giá trị chất lượng đào tạo ảo. Một số sinh viên đại học đi học với mục đích có một tấm bằng sau khi ra trường, mà không chú trọng đến khả năng, sở thích cũng như định hướng nghề nghiệp của bản thân trong tương lai. Nhiều cử nhân sau khi cầm tấm bằng đại học lại không thể sử dụng để hành nghề trong thực tế. Chất lượng nguồn nhân lực cho xã hội vì thế cũng bị ảnh hưởng. Con số hơn 70 nghìn sinh viên thất nghiệp sau khi ra trường mỗi năm là một minh chứng khá rõ ràng cho điều này.

Thưa cô, tự chủ tài chính gắn với đảm bảo chất lượng giáo dục đại học trong những năm qua đã phát huy hiệu quả ra sao và còn tồn tại những hạn chế nào?

Tiến sĩ Đỗ Ngọc Trâm: Xét về mặt tích cực, khi được trao quyền tự chủ tài chính, các trường đại học sẽ có điều kiện để tăng cường và đa dạng nguồn thu, chủ động sử dụng hiệu quả nguồn thu đó để đầu tư cho cơ sở vật chất, trang thiết bị, nguồn nhân lực giỏi… giúp nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo và nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ của nhà trường.

Thực tế cho thấy, từ lúc triển khai thực hiện theo Nghị định số 43/2006/NĐ-CP rồi đến Nghị định 16/2015/NĐ-CP và gần đây là Nghị định 60/2021 nguồn thu sự nghiệp các trường đại học đã tăng mạnh, tỷ lệ phụ thuộc vào ngân sách nhà nước cũng giảm đáng kể.

Kết quả này có được là do các nhà trường đã thực hiện một số giải pháp để tăng thu như: mở rộng các loại hình đào tạo, nghiên cứu ứng dụng theo nhu cầu thị trường; quản lý chặt chẽ nguồn thu; mở rộng và tăng quy mô năng lực cung cấp dịch vụ đào tạo và nghiên cứu ứng dụng; sắp xếp và sử dụng có hiệu quả cơ sở vật chất, nhân lực để tổ chức các hoạt động dịch vụ phù hợp với chức năng nhiệm vụ…

Rõ ràng, cơ chế tự chủ tài chính đã đem lại sự linh hoạt và hiệu quả hơn trong quản lý tài chính, tăng cường và đa dạng hóa các nguồn thu để có nguồn kinh phí bảo đảm hoạt động đầu tư nâng cao chất lượng nhà trường.

Cơ chế tự chủ tài chính đã phát huy tính năng động, sáng tạo và khuyến khích các trường huy động các nguồn vốn ngoài ngân sách để đầu tư, mua sắm trang thiết bị phát triển hoạt động đào tạo và nghiên cứu.

Việc giao quyền tự chủ, phân cấp trong mua sắm, đấu thầu đầu tư tài sản tạo điều kiện thuận lợi cho nhà trường mua được các tài sản, vật tư phù hợp với yêu cầu chuyên môn.

Tuy nhiên, vẫn còn hạn chế tồn tại như nguồn thu của các trường đại học công lập Việt Nam có tăng nhưng chủ yếu là từ thu sự nghiệp do tăng quy mô đào tạo chứ chưa huy động được các nguồn thu từ các hoạt động dịch vụ chuyển giao khoa học công nghệ và dịch vụ tư vấn giáo dục đào tạo theo hợp đồng cho các tổ chức và cá nhân trong nước. Điều này phản ánh chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học của nhà trường chưa cao.

Tỷ lệ chi cho con người chiếm phần lớn các nguồn chi, trong khi tỷ lệ chi cho cơ sở vật chất chưa tương xứng.

Trong thời gian dài, do bị khống chế về trần học phí, mức trần học phí thường thấp, thu chỉ đảm bảo chi thường xuyên chứ chưa đảm bảo chi đầu tư phát triển, vô hình trung, các trường tập trung giải quyết việc giảng dạy hơn nghiên cứu ứng dụng.

Việc duy trì mức học phí thấp, dẫn đến nguồn học phí chính quy không đủ cải thiện thu nhập cho giảng viên do đó khó thu hút và giữ được những giảng viên có trình độ cao tham gia giảng dạy.

Trong hai năm qua, đại dịch Covid-19 đã có những ảnh hưởng đáng kể tới ngành giáo dục, vậy thưa cô, chúng ta cần có giải pháp nào để thúc đẩy tự chủ tài chính song hành cùng tăng cường chất lượng ở các trường đại học công lập Việt Nam trong bối cảnh hiện nay?

Tiến sĩ Đỗ Ngọc Trâm: Tự chủ tài chính là chìa khóa giúp việc chuyển đổi hệ thống quản lý tài chính của cơ sở giáo dục đại học hiệu quả hơn, từ đó thay đổi mạnh mẽ về chất lượng giáo dục đại học. Để thúc đẩy những ảnh hưởng tích cực đến chất lượng nhà trường cũng như giảm thiểu những tồn tại khi thực hiện tự chủ tài chính, cần có các giải pháp từ phía nhà trường cũng như phía cơ quan quản lý và xã hội.

Đối với nhà trường, để tự chủ và tự chịu trách nhiệm về tài chính, nhà trường nên chú trọng giải pháp chi theo hiệu quả công việc khi hoàn thiện quy chế chi tiêu nội bộ; phân cấp quyền cho các bộ phận trong trường để mở rộng nguồn thu và khoán chi; đào tạo nâng cao năng lực quản lý tài chính cho các đơn vị; quy định trách nhiệm giải trình về tài chính giữa các cấp; tổ chức hoạt động kiểm soát nội bộ và công khai tài chính.

Chủ động xây dựng và điều tiết mức thu học phí, mức thu phí dịch vụ đào tạo nghiên cứu chuyển giao theo yêu cầu trên cơ sở tính đúng, tính đủ các yếu tố cấu thành giá và có tích lũy theo quy định của Nhà nước.

Thực hiện tăng thu sự nghiệp phải đảm bảo việc tuyển sinh cân đối với khả năng đào tạo; tăng thu bằng cách chuyển dịch nguồn thu từ ngân sách nhà nước và học phí sang thu thực hiện các đơn đặt hàng của cá nhân và tổ chức bên ngoài thông qua thực hiện đề án nghiên cứu ứng dụng giải quyết các vấn đề thực tiễn.

Nhằm tăng cường năng lực tài chính cũng như mở rộng tính chất xã hội hóa, nhà trường cần tìm kiếm đối tác trong và ngoài nước để thực hiện các hoạt động liên doanh, liên kết đào tạo, và các hoạt động phụ trợ, cung cấp nhân lực sau đào tạo cho đối tượng sử dụng lao động.

Việc giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các trường là tất yếu khách quan, phù hợp với xu hướng cải cách tài chính công của Chính phủ. Tuy nhiên, việc triển khai phải hết sức thận trọng, bởi nhà trường không chỉ đơn thuần là cung cấp dịch vụ mà còn làm nhiệm vụ chính trị để đảm bảo an sinh xã hội. Do vậy, thời gian tới, cần tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến những điểm mới của chính sách mới, tăng cường công tác tập huấn để các cấp uỷ Đảng, chính quyền các cấp và cán bộ, viên chức trong các cơ sở đại học, quán triệt, thông suốt và hiệu quả, tạo sự thống nhất trong chỉ đạo thực hiện.

Cần nghiên cứu ban hành các quy trình kiểm soát nội bộ trong mọi hoạt động:quản lý và sử dụng tài sản, đào tạo, nghiên cứu chuyển giao, vv… liên tục kiểm soát chất lượng dịch vụ; ứng dụng các giải pháp quản lý nhằm tránh nguy cơ lãng phí nguồn lực trong mua sắm và sử dụng trang thiết bị công nghệ cao; tăng cường đào tạo kiến thức quản lý, nhất là kiến thức quản trị nhà trường cho lãnh đạo các bộ phận.

Ngoài ra, cần gắn trách nhiệm cho thủ trưởng từng bộ phận với việc trao quyền tự chủ kiểm soát chất lượng bộ phận, sử dụng có hiệu quả các nguồn tài chính, nguồn lực của nhà trường, tập trung các nguồn tài chính đầu tư cho chất lượng giảng viên và cơ sở vật chất phục vụ hoạt động trọng tâm; đưa ra đãi ngộ thỏa đáng đối với cán bộ giảng viên, chuẩn hóa đội ngũ giảng viên, tăng tỷ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ.

Các trường cũng cần tạo sự gắn kết giữa đào tạo và nhu cầu nhân lực của thị trường lao động, cần coi đây là một trong những yêu cầu bắt buộc nếu muốn giảm thiểu lượng sinh viên thất nghiệp sau khi ra trường, qua đó góp phần cung cấp nguồn nhân lực đúng hướng và có chất lượng cao cho xã hội.

Một giải pháp nữa là xây dựng cơ chế lương thưởng theo vị trí và chất lượng công việc, sử dụng hiệu quả nguồn thu trong việc thu hút nhân lực chất lượng cao có yếu tố quốc tế bởi đây là nhân tố trọng điểm thiết lập chất lượng đại học.

Xây dựng nền tảng công nghệ số tạo thế chủ động trong hoạt động đào tạo và nghiên cứu kể cả khi xảy ra những biến động do dịch bệnh diện rộng như Covid-19.

Đối với các cơ quan chức năng và xã hội, cần cân đối hỗ trợ tài chính từ Ngân sách Nhà nước đối với giáo dục đại học, cụ thể: giảm và tiến tới cắt bỏ chi thường xuyên, ưu tiên tăng chi đầu tư phát triển, xây dựng hệ thống cơ sở vật chất phục vụ đào tạo và nghiên cứu hiện đại điển hình như nền tảng công nghệ số hiện đại dành cho hệ thống giáo dục, ví dụ như hệ thống đường truyền internet, hệ thống thư viện điện tử, học liệu số kết nối quốc tế, hệ thống phòng lab mà các trường cùng chuyên ngành đào tạo có thể cùng sử dụng.

Phải phân chia hợp lý chi ngân sách Nhà nước giữa các ngành học, ưu tiên các ngành học có ít khả năng xã hội hóa, nhưng cần thiết cho sự phát triển của đất nước như khoa học cơ bản, kỹ thuật.

Nhà nước cũng cần tạo cơ chế pháp lý để nhà trường đa dạng các nguồn thu xã hội hóa. Các cơ quan quản lý nhà nước quy định cụ thể về việc sử dụng các nguồn tài chính huy động xã hội hóa; về pháp luật thuế đối với các khoản thu xã hội hóa; các chính sách ưu đãi về thuế đối với các cơ sở giáo dục đại học.

Trân trọng cảm ơn Tiến sĩ Đỗ Ngọc Trâm!

Phạm Minh