Ngư dân ở Hải Lý ra khơi vào ban đêm và trở về khi trời vừa tờ mờ sáng. |
Thuyền vừa về được chuyển ngay lên các bánh xe và đưa lên bãi. |
6h sáng, thuyền về hết, bãi biển ngập tràn tiếng trò chuyện, thúc giục ồn ã. |
Gia đình các ngư dân trở về nhanh chóng chuyển hải sản vừa đánh bắt được xuống phân loại. |
Nắng lên, những ngư dân “không có thuyền” mới bắt đầu công việc của mình – kéo “lưới rê”. |
Họ tập hợp thành những nhóm 15-20 người, quăng “lưới rê” cách bờ hàng trăm mét và kéo lưới vào bờ. |
Một mẻ lưới mất từ 2-3 tiếng và nếu “trúng”, có thể thu được trên 1 tạ tôm cá các loại, chia đều cho những người cùng kéo. |
Kéo lưới là một công việc nặng nhọc và đòi hỏi cao về sức khỏe nhưng không ít phụ nữ cũng tham gia. |
“Xiếc” cũng là một cách đánh bắt cá thủ công vẫn được người dân ở đây sử dụng, thu về chủ yếu là tôm, tép và các loại cá bé. |
Tất cả hải sản được tập trung ngay trên bãi, được rửa qua nước ngọt tại các “giếng nước”. |
Và được các tiểu thương thu mua ngay tại “chợ”. Hầu hết sau đó được đưa tới tiêu thụ ở các chợ đầu mối và chợ bán lẻ lân cận. |
Giá trung bình của 1kg cá nục mua tại bãi là 30-40 nghìn đồng, cá mòi, cá ót từ 20-30 nghìn đồng/kg. Các loại hải sản giá cao như tôm, cua, ghẹ thường chỉ thu được với số lượng ít. |
8h sáng, trên bãi đã vãn người, các chủ thuyền nhanh chóng gỡ và xếp lưới, chuẩn bị cho chuyến ra khơi tiếp theo. |
Ngày nghỉ học, các em học sinh tranh thủ ra bãi giúp đỡ gia đình. |
Những đứa trẻ làng chài vui chơi trên bãi biển. |
Trường Giang