Cho đến nay, chưa tìm thấy trên các phương tiện thông tin đại chúng văn bản chỉ đạo “Sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh” giống như Nghị quyết số 37-NQ/TW.
Tuy nhiên, Chính phủ nhiệm kỳ này đã có những động thái tích cực về chuyện “Sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh”, cụ thể:
Ngày 24/04/2021, Bộ trưởng Nội vụ Phạm Thị Thanh Trà nêu ý kiến: “Tiếp tục đẩy mạnh sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã và nghiên cứu thí điểm tổ chức ở cấp tỉnh phù hợp với quan điểm chỉ đạo của Đảng là “Khuyến khích sáp nhập, tăng quy mô các đơn vị hành chính các cấp ở những nơi có đủ điều kiện để nâng cao năng lực quản lý, điều hành và tăng cường các nguồn lực của địa phương” và quy hoạch tổng thể đơn vị hành chính các cấp”. [5]
Không lâu sau, ngày 04/05/2021, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính yêu cầu “Nghiên cứu thí điểm sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh”. [6]
Liệu có tồn tại những đơn vị hành chính cấp tỉnh có quy mô trái với quy định của Quốc hội và cần phải sắp xếp?
(Tỉnh miền núi, vùng cao, dân số từ 900.000 người trở lên; diện tích tự nhiên phải từ 8.000 km2 trở lên; Tỉnh không thuộc miền núi, vùng cao, dân số từ 1.400.000 người trở lên, diện tích tự nhiên từ 5.000 km2 trở lên)
Nhìn vào bảng số liệu điều tra trong phần “Tài liệu tham khảo”, sử dụng cách thức nội suy như sau: “Tất cả những tỉnh dân số không đạt 900.000 người hoặc diện tích dưới 5.000 km2 thì chắc chắn đã vi phạm một trong hai tiêu chí (hoặc cả hai tiêu chí) Quốc hội quy định.
Thứ nhất, tìm thấy 17 tỉnh dân số dưới 900.000 người, không đạt tiêu chí thứ nhất trong Nghị quyết 1211, trong đó có không ít tỉnh thuộc khu vực đồng bằng, duyên hải như Ninh Thuận, Hậu Giang, Hà Nam,... (Bảng 1)
Ghi chú: Dấu chấm trong các con số ngăn cách hàng nghìn, hàng triệu, dấu phảy ngăn cách phần thập phân. Ví dụ 4.860 km2 là bốn nghìn tám trăm sáu mươi km2.
Số TT |
Tên tỉnh |
Khu vực |
Dân số - người |
Diện tích - km2 |
1 |
Bắc Kạn |
Đông Bắc Bộ |
313.905 |
4.860 |
2 |
Lai Châu |
Tây Bắc Bộ |
460.196 |
9.068,8 |
3 |
Cao Bằng |
Đông Bắc Bộ |
530.341 |
6.700,3 |
4 |
Kon Tum |
Tây Nguyên |
540.438 |
9.674,2 |
5 |
Ninh Thuận |
Duyên hải Nam Trung Bộ |
590.467 |
3.355,3 |
6 |
Điện Biên |
Tây Bắc Bộ |
598.856 |
9.541 |
7 |
Đắk Nông |
Tây Nguyên |
622.168 |
6.509,3 |
8 |
Quảng Trị |
Bắc Trung Bộ |
632.375 |
4.739,8 |
9 |
Lào Cai |
Tây Bắc Bộ |
730.420 |
6.364 |
10 |
Hậu Giang |
Đồng bằng sông Cửu Long |
733.017 |
1.621,8 |
11 |
Lạng Sơn |
Đông Bắc Bộ |
781.655 |
8.310,2 |
12 |
Tuyên Quang |
Đông Bắc Bộ |
784.811 |
5.867,9 |
13 |
Yên Bái |
Tây Bắc Bộ |
821.030 |
6.887,7 |
14 |
Hà Nam |
Đồng bằng sông Hồng |
852.800 |
860,9 |
15 |
Hòa Bình |
Tây Bắc Bộ |
854.131 |
4.591 |
16 |
Hà Giang |
Đông Bắc Bộ |
854.679 |
7.929,5 |
17 |
Quảng Bình |
Bắc Trung Bộ |
895.430 |
8.065,3 |
Bảng 1: Số tỉnh chưa đạt tiêu chí về dân số
Thứ hai, tìm thấy 33 tỉnh diện tích dưới 5.000 km2, không đạt tiêu chí thứ hai trong Nghị quyết 1211 (diện tích tự nhiên từ 5.000 km2 trở lên). (Bảng 2)
Thứ tự |
Tên tỉnh, |
Khu vực |
Dân số - người |
Diện tích - km2 |
1 |
Bắc Ninh |
Đồng bằng sông Hồng |
1.368.840 |
0.823 |
2 |
Hà Nam |
Đồng bằng sông Hồng |
852.8 |
0.861 |
3 |
Hưng Yên |
Đồng bằng sông Hồng |
1.252.731 |
0.930 |
4 |
Vĩnh Phúc |
Đồng bằng sông Hồng |
1.154.154 |
1.235 |
5 |
Đà Nẵng |
Duyên hải Nam Trung Bộ |
1.134.310 |
1.285 |
6 |
Ninh Bình |
Đồng bằng sông Hồng |
982.487 |
1.387 |
7 |
Cần Thơ |
Đồng bằng sông Cửu Long |
1.235.171 |
1.439 |
8 |
Vĩnh Long |
Đồng bằng sông Cửu Long |
1.022.791 |
1.475 |
9 |
Hải Phòng |
Đồng bằng sông Hồng |
1.837.173 |
1.562 |
10 |
Thái Bình |
Đồng bằng sông Hồng |
1.860.447 |
1.571 |
11 |
Hậu Giang |
Đồng bằng sông Cửu Long |
733.017 |
1.622 |
12 |
Nam Định |
Đồng bằng sông Hồng |
1.780.393 |
1.668 |
13 |
Hải Dương |
Đồng bằng sông Hồng |
1.892.254 |
1.668 |
14 |
Bà Rịa – Vũng Tàu |
Đông Nam Bộ |
1.148.313 |
1.981 |
15 |
TP. Hồ Chí Minh |
Đông Nam Bộ |
8.993.082 |
2.061 |
16 |
Trà Vinh |
Đồng bằng sông Cửu Long |
1.009.168 |
2.358 |
17 |
Bến Tre |
Đồng bằng sông Cửu Long |
1.288.463 |
2.395 |
18 |
Tiền Giang |
Đồng bằng sông Cửu Long |
1.764.185 |
2.511 |
19 |
Bạc Liêu |
Đồng bằng sông Cửu Long |
907.236 |
2.669 |
20 |
Bình Dương |
Đông Nam Bộ |
2.426.561 |
2.695 |
21 |
Sóc Trăng |
Đồng bằng sông Cửu Long |
1.199.653 |
3.312 |
22 |
Ninh Thuận |
Duyên hải Nam Trung Bộ |
590.467 |
3.355 |
23 |
Hà Nội |
Đồng bằng sông Hồng |
8.053.663 |
3.359 |
24 |
Đồng Tháp |
Đồng bằng sông Cửu Long |
1.599.504 |
3.389 |
25 |
Phú Thọ |
Đông Bắc Bộ |
1.463.726 |
3.535 |
26 |
Thái Nguyên |
Đông Bắc Bộ |
1.286.751 |
3.536 |
27 |
An Giang |
Đồng bằng sông Cửu Long |
1.908.352 |
3.537 |
28 |
Bắc Giang |
Đông Bắc Bộ |
1.803.950 |
3.851 |
29 |
Tây Ninh |
Đông Nam Bộ |
1.169.165 |
4.041 |
30 |
Long An |
Đồng bằng sông Cửu Long |
1.688.547 |
4.490 |
31 |
Hòa Bình |
Tây Bắc Bộ |
854.131 |
4.591 |
32 |
Quảng Trị |
Bắc Trung Bộ |
632.375 |
4.740 |
33 |
Bắc Kạn |
Đông Bắc Bộ |
313.905 |
4.860 |
Bảng 2: Số tỉnh chưa đạt tiêu chí về diện tích
Nhiều tỉnh như Hà Nam, Hòa Bình, Bắc Kạn, Ninh Thuận, Quảng Trị, Hậu Giang không đạt cả hai tiêu chí dân số và diện tích theo Nghị quyết 1211 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Điều đáng quan tâm là ngày 24/02/2021, Phó Thủ tướng Chính phủ Trịnh Đình Dũng ký ban hành Quyết định số 241/QĐ-TTg phê duyệt “Kế hoạch phân loại đô thị toàn quốc giai đoạn 2021-2030”.
Quyết định này hoàn toàn không đề cập đến chuyện sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh không đạt các tiêu chí dân số và diện tích quy định trong Nghị quyết 1211 do Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành 05 năm trước.
Ảnh chụp màn hình phần cuối Quyết định số 241/QĐ-TTg |
Các mục 1, 4, 5 phần cuối của Quyết định số 241/QĐ-TTg cho thấy Chính phủ dự kiến nâng cấp ba tỉnh Bắc Ninh, Thừa Thiên Huế, Khánh Hòa thành thành phố trực thuộc trung ương.
Việc “dự kiến” của Chính phủ được công bố nhằm lấy ý kiến nhân dân hay đây chỉ là thông báo những việc Chính phủ sẽ làm?
Tapchicongsan.org.vn trong bài “Một số vấn đề lý luận về mô hình tổ chức thành phố thuộc thành phố trực thuộc Trung ương” có đoạn:
“Các thành phố trực thuộc Trung ương ở Việt Nam có vị trí, vai trò rất quan trọng trong sự phát triển đất nước và thường đóng vai trò là các trung tâm, đầu tàu phát triển của cả nước, liên vùng, của vùng, thúc đẩy, dẫn dắt, tạo động lực phát triển cho các địa phương khác”. [7]
Với ý nghĩa như vậy, việc Chính phủ “dự kiến” nâng cấp 3 tỉnh lên thành phố trực thuộc trung ương là điều bình thường nhưng nếu những “dự kiến” này thành hiện thực lại là không bình thường.
Xin lấy trường hợp tỉnh Bắc Ninh để phân tích.
Bắc Ninh là tỉnh bé nhất Việt Nam với diện tích 823 km2, dân số khoảng 1,34 triệu người, vị trí địa lý liền kề với Hà Nội.
Khoảng cách từ Trung tâm thành phố Hà Nội (hồ Hoàn Kiếm) đến trung tâm thành phố Bắc Ninh (tỉnh lỵ tỉnh Bắc Ninh) chỉ khoảng 30 km. Xét về mặt địa giới, từ trung tâm thành phố Hà Nội đến địa giới thị xã Từ Sơn tỉnh Bắc Ninh chỉ khoảng 12 km.
Trong quy hoạch xây dựng, Bắc Ninh được xếp thuộc vùng Thủ đô Hà Nội.
Cũng nên nói thêm là huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An có diện tích 2.820 km2, gấp hơn ba lần diện tích tỉnh Bắc Ninh.
Những tổ chức, cá nhân “dự kiến” để thành phố bé nhất nước, nằm liền kề với thủ đô trở thành thành phố trực thuộc trung ương có biết đến quy định diện tích đơn vị hành chính cấp tỉnh vùng đồng bằng nhỏ nhất phải là 5.000 km2?
Liệu Bắc Ninh có thể là “trung tâm, đầu tàu phát triển của cả nước, liên vùng, của vùng, thúc đẩy, dẫn dắt, tạo động lực phát triển cho các địa phương khác” trong đó có Hà Nội như ý kiến nêu trên Tạp chí Cộng sản?
Toàn cảnh trung tâm thành phố Bắc Ninh (Ảnh T/L trên Báo Xây dựng). |
Thiết nghĩ việc nâng cấp đơn vị hành chính cấp tỉnh thành thành phố trực thuộc Trung ương phải là việc đã được nghiên cứu kỹ, phù hợp với quy hoạch vùng và quy định của cơ quan lập pháp là Ủy ban Thường vụ Quốc hội Quốc hội. Mặt khác cũng phải cân đối tính chất vùng miền phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội toàn quốc giai đoạn mới.
Xem xét một cách khách quan, trên cơ sở khoa học kết hợp với lịch sử vì sao Chính phủ không “dự kiến” chọn tỉnh Thái Nguyên để nâng cấp lên thành phố trực thuộc trung ương?
Thái Nguyên từng là “Thủ đô kháng chiến”, là thủ phủ Khu Tự trị Việt Bắc, cách Hà Nội khoảng 75km (gấp hơn 2 lần so với Bắc Ninh).
Thái Nguyên là một trung tâm văn hóa, giáo dục, công nghiệp vùng núi phía Bắc.
Tỉnh Thái Nguyên có Đại học Thái Nguyên là đại học trọng điểm quốc gia, (là một Đại học vùng ngang tầm với Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Đà Nẵng, Đại học Huế).
Tại Thái Nguyên còn có 09 trường đại học và 11 trường cao đẳng khác.
Thái Nguyên là một trong những trung tâm công nghiệp lớn của miền bắc, hiện có 12 khu công nghiệp tập trung với diện tích lên đến 2.775 ha.
Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn Thái Nguyên năm 2020 ước đạt 15,56 nghìn tỷ đồng, đứng đầu khu vực trung du miền núi phía Bắc.
Rõ ràng chọn Thái Nguyên nâng cấp thành thành phố trực thuộc trung ương là hoàn toàn hợp lý.
Xây dựng một đơn vị hành chính trực thuộc trung ương là hình thành một trung tâm kinh tế, văn hóa, khoa học, giáo dục, công nghiệp,…, vừa thu hút, vừa thúc đẩy sự phát triển của các địa phương “vệ tinh”. Với cách hiểu này thì cả Bắc Ninh (liền kề Hà Nội) và Thừa Thiên Huế (liền kề thành phố trực thuộc trung ương Đà Nẵng) đều không phù hợp.
Đến đây thì câu chuyện sáp nhập, chia tách, nâng cấp các đơn vị hành chính rõ ràng là có quá nhiều điều phải quan tâm.
Trong hơn 30 năm tính từ 1986, tổng số đơn vị hành chính cấp xã và huyện tăng thêm là 1.782. Theo quy định tại Nghị định 34/2019/NĐ-CP, số lượng cán bộ, công chức cấp xã tùy thuộc vào loại xã và được biên chế trong khoảng từ 19 đến 23 người.
Tổng lượng cán bộ, công chức cấp xã tăng thêm sẽ từ 28.595 đến 34.615 người chưa kể 282 đơn vị hành chính cấp huyện.
Chưa có con số thống kê cho thấy ngân sách phải bỏ ra bao nhiêu nghìn tỷ đồng xây mới 1.782 trụ sở, mua sắm trang thiết bị, trả lương cho cán bộ nhưng chắc chắn nhiều ha đất nông nghiệp đã bị bê tông hóa, và đổi lại rõ ràng nhất là thêm chỗ ngồi cho khoảng ba vạn người.
Thêm nhân sự cho bộ máy chính quyền liệu có làm gia tăng tình trạng “tham nhũng vặt”, chuyện gây khó dễ cho người dân, doanh nghiệp hoặc chất lượng quản lý là điều dư luận đã bàn tán quá nhiều?
(Còn nữa)