Mất an toàn vệ sinh lao động, doanh nghiệp thích tự xử lý

02/12/2014 08:00
Nguyễn Hoàng
(GDVN) - Nhiều vụ tai nạn lao động nghiêm trọng, dẫn đến chết người, nhưng số vụ có đề nghị truy cứu trách nhiệm hình sự chỉ chiếm khoảng 2%.

Quá nhiều tai nạn lao động, người lao động chịu thiệt

Các vụ tai nạn lao động nghiêm trọng, dẫn đến chết người, đặc biệt là trong các lĩnh vực có nguy cơ cao (khai khoáng, xây dựng, sử dụng điện...), nhưng số vụ có đề nghị truy cứu trách nhiệm hình sự chỉ chiếm khoảng 2%.

Lý do được đưa ra giải thích cho việc này là vì không đảm bảo thời hạn điều tra trong khi đó việc xử phạt các hành vi vi phạm về an toàn, vệ sinh lao động (ATVSLĐ) gần như không có tác dụng giáo dục, phòng ngừa việc tái diễn các vi phạm.  Tính đến cuối năm 2013, Việt Nam có 27.878 trường hợp mắc bệnh nghề nghiệp trong tổng số 28 bệnh nghề nghiệp được hưởng chế độ bảo hiểm xã hội.

Việt Nam hiện có tỷ lệ bệnh nghề nghiệp quá lớn.
Việt Nam hiện có tỷ lệ bệnh nghề nghiệp quá lớn.

Trong năm 2013, tỷ lệ người lao động có sức khỏe yếu (loại IV, loại V) chiếm 10 % tổng số lao động được khám sức khỏe định kỳ. Nhưng nhiều doanh nghiệp thực hiện các quy định về ATVSLĐ chỉ để đối phó sự kiểm tra của cơ quan quản lí nhà nước một phần cũng do trung bình mỗi năm chỉ có khoảng 0,22% doanh nghiệp bị thanh tra “sờ gáy” về việc thực hiện pháp luật lao động nói chung và ATVSLĐ nói riêng. Vì vậy, sửa đổi Luật ATVSLĐ lần này, Chính phủ đề nghị bổ sung thêm thanh tra chuyên ngành ATVSLĐ cấp huyện.

Tại cuộc họp cuối tháng 9 vừa qua, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã bày tỏ lo ngại về số vụ và số người chết do tai nạn lao động, số người bệnh nghề nghiệp ngày càng tăng trong thời gian qua, nên đặc biệt quan tâm đến các giải pháp có thể phòng ngừa tai nạn lao động, bảo đảm điều kiện ATVSLĐ cho người lao động trong dự thảo Luật ATVSLĐ (sửa đổi) được Chính phủ trình UBTVQH chiều qua (25/9).

Đa phần công nhân không biết về quy định chủ doanh nghiệp phải đảm bảo điều kiện an toàn lao động với mình.
Đa phần công nhân không biết về quy định chủ doanh nghiệp phải đảm bảo điều kiện an toàn lao động với mình.

Theo đề xuất của Chính phủ, bổ sung, làm rõ lực lượng làm công tác thanh tra chuyên ngành về ATVSLĐ thuộc cơ quan thực hiện quản lý nhà nước về lao động cấp trung ương, cấp tỉnh và cấp huyện là cần thiết để ngăn chặn những vi phạm pháp luật về ATVSLĐ, những hành vi “đối phó” và che dấu các sự cố về ATVSLĐ. 

Cả nước hiện có hơn 450 thanh tra viên trong ngành LĐTB&XH, trong đó số thanh tra viên tham gia làm nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành về ATVSLĐ chỉ có khoảng 150 người nên tỷ lệ các doanh nghiệp được thanh tra, kiểm tra hàng năm thấp,dẫn đến nhiều sự cố mất ATVSLĐ, bệnh nghề nghiệp mà cơ quan quản lý nhà nước không biết do doanh nghiệp không báo cáo.

Dù ủng hộ việc có thanh tra chuyên ngành ATVSLĐ, tuy nhiên Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng vẫn băn khoăn sẽ làm “phân tán lực lượng thanh tra” vì trong lĩnh vực LĐTB&XH có nhiều ngành. 

Trong khi đó, theo Bộ trưởng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội – bà Phạm Thị Hải Chuyền: “Đồng thời để đảm bảo tính khả thi của chính sách này, cần xây dựng cơ chế, chính sách cụ thể nhằm khuyến khích người lao động ở khu vực này áp dụng các tiêu chuẩn ATVSLĐ khi làm việc trong các lĩnh vực có nguy xảy ra tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp cao hoặc lĩnh vực có ảnh hưởng đến sức khỏe, an toàn của cộng đồng”.

Chủ sử dụng lao động có trách nhiệm gì với người lao động?

Thông thường, người lao động vì cuộc sống khốn khó, vì miếng cơm manh áo nên biết điều kiện lao động không đảm bảo vẫn phải chấp nhận, nhưng trong số đó cũng rất nhiều người không biết quyền lợi của mình, vì vậy khi xảy ra tai nạn lao động thì nhiều chủ sử dụng lao động tìm cách rũ bỏ trách nhiệm.

Theo quy định, chủ sử dụng lao động phải thực hiện 12 loại trách nhiệm dưới đây với người lao động (đây là những thông tin quan trọng người lao động cần phải biết - PV). Cụ thể:

Một là trang bị đầy đủ phương tiện bảo hộ lao động, bảo đảm an toàn lao động, vệ sinh lao động và cải thiện điều kiện lao động cho người lao động.

Hai là, việc xây dựng mới hoặc mở rộng, cải tạo cơ sở để sản xuất, sử dụng, bảo quản, lưu giữ và tàng trữ các loại máy, thiết bị, vật tư, các chất có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn lao động, vệ sinh lao động phải có luận chứng về các biện pháp bảo đảm an toàn lao động, vệ sinh lao động đối với nơi làm việc của người lao động và môi trường xung quanh theo quy định của pháp luật.

Ba là danh mục các loại máy, thiết bị , vật tư, các chất có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn lao động, vệ sinh lao động do Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội và Bộ Y tế ban hành.

Bốn là việc sản xuất, sử dụng, bảo quản, vận chuyển các loại máy, thiết bị, vật tư, năng lượng, điện, húa chất, thuốc bảo vệ thực vật, việc thay đổi công nghệ, nhập khẩu công nghệ mới phải được thực hiện theo tiêu chuẩn an toàn lao động, vệ sinh lao động. Các loại máy, thiết bị, vật tư, các chất có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn lao động, vệ sinh lao động phải được đăng ký và kiểm định theo quy định của Chính phủ.

Năm là người sử dụng lao động phải bảo đảm nơi làm việc đạt tiêu chuẩn về không gian, độ thoáng, độ sáng, đạt tiêu chuẩn vệ sinh cho phép về bụi, hơi, khí độc, phóng xạ, điện từ trường, nóng, ẩm, ồn, rung và các yếu tố có hại khác. Các yếu tố đó phải được định kỳ kiểm tra đo lường.

Sáu là người sử dụng lao động phải định kỳ kiểm tra, tu sửa máy, thiết bị, nhà xưởng, kho tàng theo tiêu chuẩn an toàn lao động, vệ sinh lao động.

Bảy là người sử dụng lao động phải có đủ các phương tiện che chắn các bộ phận dễ gây nguy hiểm của máy, thiết bị trong doanh nghiệp; nơi làm việc, nơi đặt máy, thiết bị, nơi có yếu tố nguy hiểm, độc hại trong doanh nghiệp, phải bố trí đề phòng sự cố, có bảng chỉ dẫn về an toàn lao động, vệ sinh lao động đặt ở vị trí mà mọi người dễ thấy, dễ đọc.

Tám là trong trường hợp nơi làm việc, máy thiết bị có nguy cơ gây tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, người sử dụng lao động phải thực hiện ngay những biện pháp khắc phục hoặc phải ra lệnh ngừng hoạt động tại nơi làm việc và đối với máy, thiết bị đó cho tới khi nguy cơ được khắc phục.

Chín là nơi làm việc có yếu tố nguy hiểm, độc hại, dễ gây tai nạn lao động phải đuợc người sử dụng lao động trang bị phương tiện kỹ thuật, y tế và trang bị bảo hộ lao động thích hợp để bảo đảm ứng cứu kịp thời khi xảy ra sự cố, tai nạn lao động.

Mười là người sử dụng lao động phải bảo đảm các phương tiện bảo vệ cá nhân đạt tiêu chuẩn chất lượng và quy cách theo quy định của pháp luật;

Mười một là khi tuyển dụng và sắp xếp lao động, người sử dụng lao động phải căn cứ vào tiêu chuẩn sức khoẻ quy định cho từng loại việc, tổ chức huấn luyện, hướng dẫn, thông báo cho người lao động về những quy định, biện pháp an toàn, vệ sinh và những khả năng tai nạn cần đề phòng trong công việc của từng người lao động.

Mười hai, người lao động làm việc ở nơi có yếu tố gây nhiễm độc, nhiễm trùng, khi hết giờ làm việc phải được người sử dụng lao động bảo đảm các biện pháp khử độc, khử trùng, vệ sinh cá nhân.

Chủ sử dụng lao động phải chịu toàn bộ chi phí y tế nếu để xảy ra tai nạn với người lao động.
Chủ sử dụng lao động phải chịu toàn bộ chi phí y tế nếu để xảy ra tai nạn với người lao động.

Người sử dụng lao động phải chịu trách nhiệm về việc để xảy ra tai nạn lao động theo quy định của pháp luật. Người sử dụng lao động phải chịu toàn bộ chi phí y tế từ khi sơ cứu, cấp cứu đến khi điều trị xong cho người bị tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp. Người lao động được hưởng chế độ bảo hiểm xã hội về tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp. Nếu doanh nghiệp chưa tham gia các loại hình bảo hiểm xã hội bắt buộc, thì người sử dụng lao động phải trả cho người lao động một khoản tiền ngang với mức quy định trong Điều lệ bảo hiểm xã hội.

Người sử dụng lao động có trách nhiệm bồi thường ít nhất bằng 30 tháng tiền lương và phụ cấp lương (nếu có) cho người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên hoặc cho thân nhân người chết do tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp mà khụng do lỗi của người lao động. Trong trường hợp do lỗi của người lao động thì cũng được trợ cấp một khoản tiền ít nhất cũng bằng 12 tháng tiền lương và phụ cấp lương (nếu có).

Đề cập tới quyền lợi của người lao động và trách nhiệm của doanh nghiệp trước nhiều ý kiến lo ngại làm thế nào để người lao động không có hợp đồng lao động tham gia mua bảo hiểm tai nạn lao động, Bộ trưởng Phạm Thị Hải Chuyền cho biết, để người dân tự nguyện tham gia mua bảo hiểm an toàn lao động, điều quan trọng là cần phải thực hiện tốt công tác tuyên truyền để người dân hiểu rõ tầm quan trọng của việc người lao động tham gia mua bảo hiểm tai nạn lao động tự nguyện chính là tự bảo vệ mình và người thân. Cùng với đó là chính sách hỗ trợ cho người lao động khi gặp rủi ro phải tốt, kịp thời và tương xứng, điều này lâu nay chúng ta chưa làm được tốt.

“Tôi tin rằng nếu làm tốt công tác tuyên truyền thì người lao động sẽ tham gia vào việc mua bảo hiểm tai nạn lao động, Bộ trưởng khẳng định.

Với đối tượng không có quan hệ lao động (hợp đồng lao động) thì chính sách đóng – hưởng bảo hiểm tai nạn lao động quản lý như thế nào? Bộ trưởng Phạm Thị Hải Chuyền cho biết: “Khi luật ban hành sẽ giống như quy định về đóng Bảo hiểm y tế, người lao động chỉ phải đóng 1% còn lại Nhà nước sẽ hỗ trợ phần còn lại để có quỹ bảo hiểm tai nạn lao động tự nguyện, và mức chi nhà nước sẽ cân đối được”.

Nguyễn Hoàng