Trường ĐH Kinh tế & Quản trị Kinh doanh, ĐH Thái Nguyên: Số công bố khoa học/GV chưa đạt chuẩn

09/12/2025 06:24
Đình Nam
Theo dõi trên Google News
0:00 / 0:00
0:00

GDVN -Trường ĐH Kinh tế và Quản trị kinh doanh, ĐH Thái Nguyên thừa nhận hoạt động khoa học - công nghệ gặp khó khăn do đặc thù của lĩnh vực đào tạo. 

Thông tư 01/2024/TT-BGDĐT (gọi là Thông tư 01) về Chuẩn cơ sở giáo dục đại học của Bộ Giáo dục và Đào tạo là cơ sở để thực hiện quy hoạch, sắp xếp mạng lưới cơ sở giáo dục đại học; đánh giá và giám sát các điều kiện đảm bảo chất lượng, việc thực hiện trách nhiệm giải trình của các cơ sở giáo dục đại học theo quy định của pháp luật.

Theo quy định, các cơ sở giáo dục đại học phải chốt số liệu vào ngày 31 tháng 12 hằng năm; đối với số liệu về tài chính, thời điểm chốt số liệu là ngày 31 tháng 3 của năm tiếp theo.

Để tìm hiểu rõ hơn về việc đáp ứng các tiêu chuẩn, tiêu chí tại Thông tư 01, phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam đã ghi nhận chia sẻ của Trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh, Đại học Thái Nguyên.

2-1714786958.jpg
Trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh, Đại học Thái Nguyên. Ảnh: website nhà trường

Hoạt động khoa học công nghệ còn nhiều khó khăn

Theo các biểu mẫu công khai điều kiện đảm bảo chất lượng giáo dục và cam kết đảm bảo chất lượng giáo dục năm 2025, nội dung về nghiên cứu và đổi mới sáng tạo cho thấy, số công bố WoS, Scopus trên giảng viên của trường là 0,2 bài.

Trong khi đó, Tiêu chí 6.2, Thông tư 01/2024/TT-BGDĐT quy định: “Số lượng công bố khoa học và công nghệ tính bình quân trên một giảng viên toàn thời gian không thấp hơn 0,3 bài/năm”.

cong-bo-scopus.jpg
Số công bố WoS, Scopus trên giảng viên năm 2025 của Trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh, Đại học Thái Nguyên chưa đạt chuẩn. Ảnh chụp màn hình

Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Tiến sĩ Nguyễn Quang Hợp - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh, Đại học Thái Nguyên khẳng định: Là cơ sở giáo dục đào tạo trình độ tiến sĩ, ngay từ khi dự thảo Thông tư 01/2024/TT-BGDĐT được ban hành, nhà trường đã nhận diện rõ nhiệm vụ nâng cao năng lực nghiên cứu và tăng số lượng công bố quốc tế, đặc biệt là công bố trên các tạp chí thuộc danh mục WoS/Scopus.

Theo vị lãnh đạo này, con số 0,2 bài/năm được thể hiện trong báo cáo là số liệu tạm tính. Theo hệ thống HEMIS (hệ thống cơ sở dữ liệu về giáo dục đại học) của Bộ Giáo dục và Đào tạo cập nhật đến ngày 31/12/2024, chỉ số công bố chính thức của nhà trường đạt 0,26 bài/giảng viên/năm.

Sự chênh lệch này xuất phát từ thời điểm tổng hợp báo cáo công khai và thời điểm cập nhật bài báo cuối cùng lên HEMIS. Dù vậy, mức 0,26 vẫn thấp hơn yêu cầu 0,3 bài/năm - tức còn thiếu 0,04 bài/giảng viên/năm theo Thông tư 01.

“Sau khi Nghị quyết 57-NQ/TW được ban hành, tập thể lãnh đạo nhà trường xác định đây vừa là cơ hội, vừa là thách thức lớn, buộc trường phải tăng tốc trong nghiên cứu khoa học. Một số khó khăn nổi bật có thể kể đến như đặc thù của lĩnh vực kinh tế - xã hội khiến việc công bố quốc tế khó khăn hơn nhiều so với lĩnh vực khoa học tự nhiên. Ở các lĩnh vực kinh tế, kinh doanh, tài chính, luật… việc tạo ra đóng góp mới, có tính học thuật cao và đáp ứng chuẩn mực của các tạp chí uy tín là thách thức lớn.

Tiếp đó, quá trình chuyển đổi mô hình hợp tác theo chiều sâu với doanh nghiệp và các đối tác quốc tế có độ trễ nhất định. Để thể hiện năng lực dẫn dắt nghiên cứu, các nhóm nghiên cứu cần thời gian tích lũy. Đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế - xã hội, việc đo lường ngay tác động của một nghiên cứu là rất khó”, thầy Hợp bày tỏ.

Ngoài ra, tại Biểu 16. Thông tin về danh mục dự án, đề tài hoặc nhiệm vụ khoa học công nghệ do đơn vị chủ trì, nhà trường không nhắc đến đề tài hợp tác quốc tế hay hợp tác với doanh nghiệp trong nước nào.

Bên cạnh đó, tổng số bằng độc quyền sáng chế và tổng số bằng độc quyền giải pháp hữu ích của nhà trường trong năm 2024 đều bằng “0”.

sang-che.jpg
Ảnh chụp màn hình.

Liên quan đến vấn đề này, Tiến sĩ Nguyễn Quang Hợp cho biết hàng năm Trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh, Đại học Thái Nguyên đều tham gia một số dự án nghiên cứu, song mới dừng ở vai trò phối hợp, chưa đủ điều kiện để trở thành đơn vị chủ trì chính thức.

Trường hiện duy trì một vài nhóm nghiên cứu hợp tác với Học viện Hồng Hà (Trung Quốc) về logistics thông minh, hoặc phối hợp cùng Liên minh châu Âu, Hội đồng Anh… Tuy nhiên, vì không phải đơn vị chủ trì nên các đề tài này không được thống kê trong biểu mẫu báo cáo.

“Để đáp ứng yêu cầu của Thông tư 01, Trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh, Đại học Thái Nguyên đã xây dựng ba trụ cột phát triển nghiên cứu khoa học theo tinh thần Nghị quyết 57-NQ/TW của Bộ Chính trị.

Thứ nhất, nhà trường tập trung đầu tư vào nguồn lực con người và nâng chuẩn học thuật. Trong 2-3 năm qua, nhà trường tập trung đào tạo chuyên sâu về phương pháp nghiên cứu định lượng, kỹ năng viết và công bố quốc tế.

Riêng năm học 2024-2025, nhà trường tổ chức 12 khóa tập huấn, mời nhiều chuyên gia trong và ngoài nước tham gia hướng dẫn giảng viên, đặc biệt là đội ngũ trẻ. Từ đầu năm 2025 đến nay, hầu như tuần nào trường cũng có hoạt động workshop, seminar học thuật.

Trường đẩy mạnh quốc tế hóa đội ngũ thông qua việc mời gần 50 học giả quốc tế và chuyên gia Việt Nam ở nước ngoài đến giảng dạy, trao đổi, hướng dẫn nghiên cứu sinh và hình thành các nhóm nghiên cứu mạnh trong năm học 2024-2025.

Trường cũng siết chặt liêm chính học thuật, áp dụng công cụ Turnitin và yêu cầu các khoa, bộ môn tổ chức seminar học thuật định kỳ để thúc đẩy tư duy phản biện, trao đổi học thuật và nuôi dưỡng ý tưởng mới.

Thứ hai, nhà trường tăng cơ chế khuyến khích dựa trên kết quả thông qua việc ban hành các chính sách thưởng và hỗ trợ tài chính rõ ràng. Năm 2025, mức thưởng cho một công bố thuộc danh mục SSCI hoặc Scopus Q1 là 60 triệu đồng - đây là nỗ lực lớn của nhà trường nhằm tạo động lực nghiên cứu.

Những bài công bố quốc tế cũng được đưa vào tiêu chí đánh giá thi đua, khen thưởng và nâng lương với trọng số cao. Trường đồng thời ưu tiên nguồn lực cho các nhóm nghiên cứu tiềm năng, khuyến khích giảng viên chủ trì đề tài cấp quốc gia, cấp bộ và tham gia các mạng lưới nghiên cứu.

Thứ ba, nhà trường mở rộng hệ sinh thái hợp tác và đổi mới sáng tạo, chủ động chuyển hướng hợp tác quốc tế từ trao đổi học thuật sang triển khai dự án nghiên cứu quy mô lớn, tìm kiếm nguồn tài trợ chung với các đối tác từ Trung Quốc, Nhật Bản đến châu Âu.

Đồng thời, trường tăng cường hợp tác doanh nghiệp: doanh nghiệp tham gia cùng giảng dạy, hỗ trợ sinh viên thực tập, đồng thời đồng hành trong nghiên cứu và hình thành các quỹ hỗ trợ khoa học cho giảng viên và sinh viên”, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh, Đại học Thái Nguyên cho hay.

Không có giáo sư nào, khó khăn giữ chân nhân lực chất lượng cao

Theo Biểu 8. Đội ngũ giảng viên năm 2024 cho thấy, Trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh, Đại học Thái Nguyên có tất cả 229 giảng viên, trong đó có 6 phó giáo sư, không có giáo sư nào.

Nói về công tác thu hút và giữ chân nhân lực chất lượng cao, đặc biệt là giáo sư và phó giáo sư, thầy Hợp thừa nhận rằng đây là khó khăn chung của hầu hết các cơ sở giáo dục đại học. Dù vậy, năm 2025, số lượng phó giáo sư của nhà trường đã tăng lên 8 thầy cô.

“Những năm gần đây, số lượng phó giáo sư của trường giảm do một số thầy, cô nghỉ hưu hoặc chuyển tới địa phương khác. Nếu không có sự dịch chuyển tự nhiên này, số lượng phó giáo sư của trường có thể lên đến hơn 10 người.

Với đặc thù là trường nằm ở tỉnh Thái Nguyên, sức hút của trường rõ ràng thấp hơn so với các cơ sở lớn tại thành phố Hà Nội, nhất là khi nhiều trường đại học tư có nguồn lực tài chính mạnh, chế độ đãi ngộ cao và vị trí địa lý thuận lợi.

Tuy nhiên, tín hiệu tích cực là trong vài năm trở lại đây, số giảng viên chuyển sang đơn vị khác do được mời gọi giảm mạnh. Điều này cho thấy sức hút từ bên ngoài tuy còn, nhưng mức độ đã giảm so với giai đoạn trước.

Một khó khăn khác nằm ở cơ chế thu hút nhân lực chất lượng cao. Mức hỗ trợ hiện nay của Trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh, Đại học Thái Nguyên chưa thực sự cạnh tranh so với các cơ sở giáo dục đại học ở Hà Nội.

Theo quy chế hiện hành, giảng viên có bằng tiến sĩ khi về trường công tác được hỗ trợ 50 triệu đồng, phó giáo sư là 100 triệu đồng. Đối với giáo sư, nhà trường hầu như chưa thể thu hút từ nơi khác, chủ yếu kỳ vọng vào việc phát triển từ nội bộ”, thầy Hợp chia sẻ.

Cũng theo Tiến sĩ Nguyễn Quang Hợp, để giữ chân và phát triển đội ngũ nhân lực chất lượng cao, Trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh, Đại học Thái Nguyên đã tập trung nâng cao chất lượng và quy mô đào tạo nhằm cải thiện thu nhập cho giảng viên.

Năm 2024, thu nhập bình quân của giảng viên đạt 19,7 triệu đồng/tháng, cao hơn đáng kể so với 5-6 năm trước. Hiện trường cũng đang rà soát Quy chế chi tiêu nội bộ để áp dụng cho năm 2026, dự kiến nâng mức thu hút nhân lực chất lượng cao đáng kể: 500 triệu đồng cho giáo sư thuộc các ngành kinh tế - kinh doanh - quản lý; 300 triệu đồng cho phó giáo sư; và 200 triệu đồng cho tiến sĩ phù hợp định hướng đào tạo của trường.

Đồng thời, trường đang sửa đổi quy chế làm việc của giảng viên theo hướng linh hoạt. Thay vì áp dụng đồng nhất 270 giờ tiêu chuẩn như giai đoạn trước, trường dự kiến phân bổ định mức giảng dạy trong khoảng 200-350 giờ theo khung Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định.

Những giảng viên có năng lực và đam mê nghiên cứu sẽ được giao định mức giảng dạy thấp hơn để có quỹ thời gian dành cho nghiên cứu, góp phần hình thành các nhóm nghiên cứu mạnh. Việc bỏ cách phân bổ “cào bằng” sẽ tạo điều kiện cho những người có khả năng nghiên cứu bứt phá.

“Trong thời gian tới, nhà trường sẽ khuyến khích giảng viên tham gia xét duyệt chức danh phó giáo sư, giáo sư, đồng thời đẩy mạnh việc khuyến khích giảng viên học tập nâng cao trình độ. Các bài báo quốc tế uy tín thuộc Q1 hoặc SSCI được thưởng 60 triệu đồng/bài; giảng viên được bổ nhiệm phó giáo sư được hỗ trợ 30 triệu đồng, giáo sư được hỗ trợ 40 triệu đồng.

Tuy các giải pháp trên mới chỉ là một phần, nhưng thể hiện nỗ lực của nhà trường trong việc phát triển và nâng cao chất lượng đội ngũ. Để đạt được các mục tiêu lớn hơn, nhà trường sẽ còn rất nhiều việc phải làm trong thời gian tới”, vị lãnh đạo này nói thêm.

Nguồn thu chủ yếu từ học phí, nỗ lực khai thác chuyển giao công nghệ

Về phần thu chi tài chính, Trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh, Đại học Thái Nguyên chỉ công khai hai biểu mẫu là Biểu 1. Các khoản thu và mức thu đối với người học năm học 2024-2025 và Biểu 2. Công khai số dư các quỹ theo quy định, kể cả quỹ đặc thù năm 2024, trong đó không thể hiện tổng thu hoạt động, khoản thu cấp từ ngân sách nhà nước, các khoản thu khác từ người học hay nguồn thu từ khoa học và công nghệ,...

Liên quan đến vấn đề này, Tiến sĩ Nguyễn Quang Hợp cho biết: tổng thu hoạt động của nhà trường năm 2024 đạt 133,924 tỷ đồng. Trong đó, thu học phí, lệ phí từ người học vẫn chiếm tỷ trọng hơn 68% - tương ứng 91,308 tỷ đồng còn thu từ khoa học và công nghệ đạt 5,394 tỷ đồng (khoảng 4%).

hoc-phi-qtkd.jpg
Nguồn thu của nhà trường chủ yếu đến từ học phí, lệ phí từ người học. Ảnh chụp màn hình

Để gia tăng nguồn thu ngoài học phí, đặc biệt là thu từ khoa học - công nghệ, nhà trường đã xác định một số định hướng trọng tâm.

Đầu tiên, mở rộng các chương trình tư vấn chiến lược dài hạn cho địa phương, tập trung vào các lĩnh vực như quy hoạch, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, cải thiện môi trường kinh doanh.

Hiện nay, Trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh, Đại học Thái Nguyên đang triển khai một lớp chuyển giao tri thức cho cán bộ địa phương theo đặt hàng của Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Thái Nguyên. Đây là ví dụ cụ thể về hoạt động mang lại nguồn thu từ tư vấn và chuyển giao công nghệ.

Tiếp đó, trường chú trọng phát triển các chương trình bồi dưỡng và đào tạo theo yêu cầu của đội ngũ cán bộ địa phương cũng như các khóa quản trị cao cấp dành cho doanh nghiệp.

Theo thầy Hợp, trong buổi làm việc gần đây với Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa tỉnh Thái Nguyên, Hiệp hội Doanh nghiệp Thái Nguyên và một số doanh nghiệp FDI, nhiều đơn vị nêu rõ đang gặp vướng mắc về thuế, kế toán, quản trị… và mong muốn nhà trường xây dựng các chương trình hỗ trợ, chuyển giao tri thức. Đây là hướng mở giúp nhà trường vừa tạo thêm nguồn thu, vừa đóng góp thiết thực cho cộng đồng doanh nghiệp.

Ngoài ra, nhà trường sẽ tận dụng lợi thế trong các lĩnh vực mới như chuyển đổi số, trí tuệ nhân tạo (AI). Với nền tảng đào tạo công nghệ thông tin và đội ngũ giảng viên có nhiều kinh nghiệm thực tiễn, nhà trường kỳ vọng có thể phát triển các sản phẩm, khóa đào tạo và hoạt động chuyển giao liên quan đến chuyển đổi số, AI để tạo ra nguồn thu mới.

Đặc biệt, nhà trường sẽ đẩy mạnh thực hiện các đề tài nghiên cứu theo đơn đặt hàng của doanh nghiệp và địa phương; đồng thời tích cực tham gia các chương trình hợp tác quốc tế, dự án quốc tế nhằm đa dạng hóa nguồn tài chính, mở rộng cơ hội hội nhập.

Đình Nam