Vì sao chúng ta vẫn cứ nghèo?

31/10/2014 07:06
Ngọc Quang
(GDVN) - Xuất phát điểm của nền kinh tế và năng suất lao động thấp, trình độ khoa học lạc hậu, vẫn dựa vào nông nghiệp...Vậy còn nguyên nhân gì khiến ta cứ nghèo mãi?

Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), năng suất lao động (NSLĐ) của Việt Nam năm 2013 thuộc nhóm thấp nhất khu vực châu Á - Thái Bình Dương. 

Cụ thể, thấp hơn Singapore 15 lần, thấp hơn Nhật Bản 11 lần và thấp hơn Hàn Quốc khoảng 10 lần. So với các nước có thu nhập trung bình trong khối ASEAN, NSLĐ của Malaysia gấp 5 lần NSLĐ của Việt Nam còn NSLĐ của Thái Lan gấp 2,5 lần NSLĐ của Việt Nam.

ILO tính năng suất lao động theo công thức sau:

NSLĐ = GDP/Tổng số lao động đang làm việc trong nền kinh tế

NSLĐ = Tổng sản phẩm nội địa theo đầu người làm việc

NSLĐ = GDP/Dân số  x   Tỷ lệ người làm việc trong tổng dân số

Như vậy, khi tỷ lệ người làm việc trong dân số giữa các nước là xấp xỉ như nhau thì so sánh NSLĐ giữa các nước cũng tương đương như so sánh tổng sản phẩm nội địa theo đầu người của các nước.

Theo phân loại của Ngân hàng Thế giới, một quốc gia có Tổng sản phẩm nội địa theo đầu người dưới 1.000 USD/năm thì quốc gia đó được xếp là nước nghèo. Việt Nam mới thoát nghèo vào năm 2008. Khi đó, GDP/người của Singapore là 39.700 USD, gấp hơn 34 lần Việt Nam; của Nhật Bản là 37.800 USD, gấp 33 lần Việt Nam; của Hàn Quốc là 20.500 USD, gấp 18 lần Việt Nam; của Malaysia là 8.400 USD, gấp 7 lần Việt Nam và của Thái Lan là 4.100 USD, gấp 3,6 lần Việt Nam. Tức là câu hỏi: "Vì sao NSLĐ của Việt Nam thấp?” hoàn toàn tương tự như câu hỏi: "Vì sao Việt Nam nghèo?”.

Ông Nguyễn Thiện Nhân – Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã chỉ ra 5 nguyên nhân:

Ông Nguyễn Thiện Nhân - Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Ảnh: TTBC.
Ông Nguyễn Thiện Nhân - Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Ảnh: TTBC.

Thứ nhất, xuất phát điểm của Việt Nam và các nước là rất khác nhau về trình độ phát triển như hạ tầng cơ sở, nguồn nhân lực, thiết bị, công nghệ, cơ cấu nền kinh tế, trình độ KHCN, mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật.

Việt Nam bị tàn phá nặng nề qua 30 năm chiến tranh (1945-1975), mới bắt tay vào công cuộc xây dựng lại và phát triển đất nước từ năm 1975, trong khi đó các nước khác như Malaysia, Thái Lan, Singapore, Hàn Quốc, Nhật Bản đã có bước phát triển mạnh trong 30 năm trước đó.

Do đó, tại thời điểm năm 1975 khoảng cách về thu nhập theo đầu người hay NSLĐ giữa các nước và Việt Nam là rất lớn. Năm 1975, theo số liệu của Liên hợp quốc, GDP theo đầu người của nước ta mới chỉ đạt 79 USD, trong khi đó Malaysia là 819 USD (gấp 10 lần VN), Thái Lan là 366 USD (gấp 4,6 lần VN), Singapore là 2.558 USD (gấp 32 lần VN), Hàn Quốc là 624 USD (gấp 8 lần VN), còn Nhật Bản là 4.629 USD (gấp 58 lần VN).

Đến năm 2013, khoảng cách về thu nhập theo đầu người hay NSLĐ giữa các nước trên và Việt Nam đã thu hẹp: Malaysia chỉ còn gấp 5,5 lần Việt Nam (năm 1975 gấp 10 lần), Thái Lan gấp 3 lần (năm 1975 gấp 4,6 lần), Singapore gấp 29 lần (năm 1975 gấp 32 lần), và Nhật Bản gấp 20 lần (năm 1975 gấp 58 lần). Với xuất phát điểm thấp như vậy, việc nhanh chóng thu hẹp khoảng cách về thu nhập và NSLĐ của Việt Nam với các nước như đã nêu trên là thành tựu đáng ghi nhận của nước ta.

Thứ hai, khả năng tự tích lũy của nền kinh tế còn thấp:

Để sản xuất không chỉ cần lao động mà phải có thiết bị công nghệ. Xu hướng phát triển của nhân loại là: từ sản xuất thủ công (chi phí công cụ sản xuất thấp) chuyển sang sản xuất cơ khí hóa (chi phí thiết bị công nghệ cao hơn nhiều) và tiến lên sản xuất tự động hóa (chi phí cho thiết bị máy móc còn tăng cao hơn nữa, sử dụng ít lao động hơn nữa). Như vậy, quá trình tăng NSLĐ của loài người luôn đi đôi với điều kiện tăng mức trang bị thiết bị, công nghệ cho người lao động.

Như vậy phải có vốn đầu tư, tăng vốn đầu tư để cơ khí hóa, tự động hóa, tin học hóa sản xuất. Một nước nghèo thì khả năng tự tiết kiệm để đầu tư là hạn chế, vì vậy phải có một quá trình tích lũy vốn và đầu tư hàng chục năm mới thực hiện được cơ khí hóa, cơ giới hóa, tự động hóa, tin học hóa nền kinh tế.

Từ 2000 đến 2013, mặc dù khoảng cách về vốn đầu tư toàn xã hội/người lao động của các nước so với Việt Nam đã được thu hẹp đáng kể nhưng mức độ chênh lệch vẫn còn lớn: Nhật Bản từ gấp Việt Nam 76 lần năm 2000 giảm xuống còn 20 lần vào năm 2013; Singapore từ gấp 66 lần giảm xuống còn 22 lần; Hàn Quốc từ gấp hơn 34 lần giảm còn 21 lần; Malaysia từ gấp gần 11 lần giảm còn 6,5 lần; Thái Lan từ gấp 3,5 lần giảm còn gần 3 lần.

Khả năng tự tích lũy để tái đầu tư thấp dẫn đến tình trạng các doanh nghiệp Việt Nam chưa tham gia đầy đủ vào tất cả các khâu của chuỗi sản xuất hàng hóa, do đó giá trị gia tăng tạo ra chưa cao. Lấy ví dụ trong ngành dệt may.

Theo số liệu của Tập đoàn Dệt may Việt Nam, lợi nhuận của từng khâu trong chuỗi sản xuất ngành dệt may là: khâu sản xuất sợi - 40 triệu đồng/người/năm; khâu dệt - 30 triệu đồng/người/năm, khâu may - 5,5 triệu đồng/người/năm. Do đó, muốn tạo ra thu nhập cao hơn thì các doanh nghiệp Việt Nam phải tham gia vào các khâu kéo sợi và dệt vải nhưng phải xem xét suất đầu tư.

40 năm sau khi thống nhất đất nước, kinh tế Việt Nam vẫn đang ở một khoảng cách khá xa so với Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaysia.
40 năm sau khi thống nhất đất nước, kinh tế Việt Nam vẫn đang ở một khoảng cách khá xa so với Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaysia.

Thứ ba, trình độ công nghệ thấp, lạc hậu:

Theo kết quả tổng điều tra doanh nghiệp trong giai đoạn 2000-2011, mặc dù có xu hướng giảm dần nhưng tỷ lệ các doanh nghiệp sử dụng công nghệ thấp vẫn chiếm bình quân gần 60% tổng số doanh nghiệp tham gia điều tra. Các doanh nghiệp sử dụng công nghệ trung bình thấp chiếm gần 29%. Các doanh nghiệp sử dụng công nghệ trung bình cao chiếm tỷ lệ khoảng 10%. Các doanh nghiệp sử dụng công nghệ cao chỉ chiếm khoảng 2%.

Tình trạng khoảng 88% doanh nghiệp Việt Nam có trình độ công nghệ thấp và trung bình thấp là một nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng NSLĐ và thu nhập đầu người của Việt Nam còn thấp. Để khắc phục tình trạng này phải tăng đầu tư để bổ sung và hiện đại hóa thiết bị công nghệ ở hầu hết các doanh nghiệp trong nền kinh tế.

Thứ tư, nền kinh tế nước ta vẫn sử dụng nhiều lao động trong nông nghiệp và trình độ lao động nói chung vẫn còn thấp:

Mặc dù cơ cấu kinh tế Việt Nam hiện nay đang từng bước chuyển dịch từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ, nhưng lao động nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng lớn. Năm 2014, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chỉ đóng góp khoảng 18% GDP nhưng chiếm đến 47% tổng số lao động đang làm việc trong nền kinh tế. Ở các nước trong khu vực, tỷ lệ lao động nông nghiệp thấp hơn nhiều: Thái Lan - 39%, Trung Quốc - 34%, Malaysia – 11%, Hàn Quốc – 6,5%, còn Singapore chỉ có khoảng 1% lao động làm việc trong khu vực nông nghiệp.

Tỷ lệ lao động qua đào tạo của Việt Nam mặc dù tăng dần qua các năm nhưng vẫn còn ở mức thấp: năm 2000 – 16%, năm 2005 – 26,2%, năm 2010 – 40%, năm 2013 ước đạt 49%. Trong khi đó, tỷ lệ lao động qua đào tạo của Singapore năm 2013 là 61,5%, Hàn Quốc là 62%.

Thứ năm, khoa học chậm phát triển, đầu tư cho khoa học – công nghệ (KHCN) còn thấp:

Từ năm 2001 đến năm 2011 tỷ lệ đầu tư cho KHCN/GDP của nước ta nhìn chung xoay quanh mức 0,5% và trong 11 năm tỷ lệ đầu tư này chỉ tăng từ 0,48% lên 0,51%. Trong khi đó, một số nước trong khu vực gia tăng đầu tư mạnh cho KHCN: Malaysia tăng từ 0,47% lên 1,07% GDP, Trung Quốc tăng từ 0,95% lên 1,84% GDP, Hàn Quốc tăng từ 2,47% lên 4,04% GDP, Thái Lan tăng từ 0,26% lên 0,37% GDP và đang hướng đến mục tiêu đạt 1% GDP vào năm 2016.

Nghị quyết số 20-NQ/TW về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế đã xác định: nâng tổng đầu tư xã hội cho khoa học và công nghệ đạt 1,5% GDP vào năm 2015, trên 2% GDP vào năm 2020 và khoảng 3% GDP vào năm 2030. Riêng chi của Nhà nước cho khoa học và công nghệ bảo đảm tối thiểu 2% tổng chi ngân sách nhà nước hàng năm.

Ngoài 5 yếu tố chính nói trên, còn nhiều yếu tố khác liên quan đến câu hỏi: Vì sao một quốc gia lại nghèo, NSLĐ thấp, đó là: Sản xuất công nghiệp theo phương thức gia công là chủ yếu; Sản xuất nông nghiệp vẫn chủ yếu là bán nguyên liệu và xuất khẩu thô, chưa có các sản phẩm cuối cùng có thương hiệu quốc tế; Tiến độ cổ phần hóa và tái cơ cấu các DNNN còn chậm; Chính sách kinh tế vĩ mô còn bất hợp lý; Chưa khai thác đầy đủ các cơ hội của thị trường thế giới trong quá trình hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa.

Ông Nguyễn Thiện Nhân bày tỏ: “Tôi xin đề nghị các đồng chí lãnh đạo các ngành, các địa phương, các chủ doanh nghiệp, khi bàn về việc làm sao để tăng trưởng bền vững hơn, hiệu quả cao hơn, hãy hỏi 5 câu hỏi: người lao động được đào tạo ở đâu, khoa học công nghệ ở đâu, vốn từ đâu, đất ở đâu và thị trường ở đâu; chứ không phải dừng lại ở 2 câu hỏi: Vốn từ đâu và đất ở đâu”.

Ngọc Quang