Vào chiều 20/5, ông Phan Trung Lý - Ủy viên Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban pháp luật của Quốc hội, đồng thời là thành viên UB soạn thảo sửa đổi Dự thảo Hiến pháp năm 1992 đã trình bày báo cáo giải trình, tiếp thu ý kiến nhân dân và chỉnh lý dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 trước Quốc hội, trong đó đề cập đến nhiều vấn đề đặc biệt quan trọng, thu hút sự chú ý của nhân dân cả nước.
Dự kiến trong hai ngày (3 và 4/6), Quốc hội sẽ thảo luận để lấy ý kiến đóng góp của các vị đại biểu.
Thứ nhất: Quyền con người và quyền công dân
Qua tổng hợp của UB Dự thảo sửa đổi Hiến pháp thì nội dung này nhận được nhiều sự quan tâm, với 6 nhóm ý kiến khác nhau: Loại ý kiến thứ nhất, đề nghị làm rõ khái niệm phân biệt “quyền con người” và “quyền công dân” trong Hiến pháp;
Loại ý kiến thứ hai đề nghị xem lại cách quy định quyền con người và quyền công dân, chia quyền con người, quyền công dân thành các mục khác nhau; Loại ý kiến thứ ba đề nghị xác định rõ trách nhiệm của nhà nước và những bảo đảm của nhà nước để đặc quyền trong hiến pháp có tính hiện thực và khả thi;
Loại ý kiến thứ tư cho rằng về cơ bản quyền con người không bị hạn chế, nhưng nếu hạn chế thì phải chỉ rõ cơ sở và chỉ hạn chế quyền con người theo quy định của luật; Loại ý kiến thứ sáu đề nghị làm rõ trách nhiệm và nghĩa vụ của công dân trong mối quan hệ với quyền.
Trong hôm nay và ngày mai, các ĐB Quốc hội sẽ thảo luận về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992. |
Thứ hai: Đề nghị giữ Điều 4 và không xây dựng Luật về lãnh đạo của Đảng
Về điều 4, đa số ý kiến nhân dân tán thành sự lãnh đạo của Đảng với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình. Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng không quy định Điều 4 vì Đảng là tổ chức chính trị được tổ chức và hoạt động theo cương lĩnh và điều lệ.
Trước những quan điểm khác nhau ấy, UB soạn thảo sửa đổi Hiến pháp báo cáo Quốc hội khẳng định, việc giữ Điều 4 quy định về vai trò lãnh đạo của Đảng là cần thiết, kế thừa Điều 4 của Hiến pháp năm 1992, khẳng định tính lịch sử, tính tất yếu khách quan vai trò lãnh đạo của Đảng với quá trình cách mạng, với quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước.
"Chính phủ giữ nguyên quan điểm góp ý Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992"
Đề nghị không đổi tên nước, không xây dựng Luật về lãnh đạo của Đảng
Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành của nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác – Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng.
Do bản chất và nền tảng tư tưởng của Đảng như vậy, nên nhân dân ta mới thừa nhận vai trò lãnh đạo nhà nước, lãnh đạo xã hội của Đảng và ghi nhận vào Hiến pháp – đạo luật cơ bản của nhà nước ta. Do đó, UB soạn thảo sửa đổi Hiến pháp đề nghị Quốc hội giữ Điều 4 như dự thảo đã công bố lấy ý kiến nhân dân.
Thứ ba: Đề nghị giữ nguyên hoặc lấy lại tên nước là “Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”
Qua tổng hợp nhiều ý kiến đề nghị lấy lại tên gọi Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, vì tên gọi này ra đời gắn liền với chính thể cộng hòa đầu tiên của nước ta, là thành quả của cuộc cách mạng giành độc lập tháng 8/1945.
Tên gọi này đã được chính thức ghi nhận trong bản tuyển ngôn độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên đọc ngày 2/9/1945 và tiếp tục được khẳng định trong Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, thể hiện rõ thể chế chính trị của nhà nước ta là “cộng hòa”, bản chất của nhà nước ta là “nhà nước dân chủ”. Ý kiến này cho rằng, việc lựa chọn tên nước là “Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” không làm ảnh hưởng đến mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội của nước ta, vì lời nói đầu cũng như các quy định khác của dự thảo đều khẳng định con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
UB soạn thảo Dự thảo sửa đổi Hiến pháp cho rằng, tên nước là “Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam” hoặc “Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” đều thể hiện rõ chính thể của nước ta là “cộng hòa”, bản chất của nhà nước ta là “nhà nước dân chủ”.
Tuy nhiên việc giữ nguyên tên nước là Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhằm tiếp tục khẳng định con đường phát triển đất nước lên chủ nghĩa xã hội bảo đảm tính ổn định, tránh việc phải thay đổi quốc huy, con dấu, quốc hiệu trên các văn bản giấy tờ. Hơn nữa, trải qua 37 năm, tên gọi này đã trở nên quen thuộc với nhân dân Việt Nam và bạn bè quốc tế”.
Thứ tư: Về sở hữu đất đai
Ý kiến này cho rằng quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân là không rõ về chủ thể sở hữu; Loại thứ ba đề nghị tách thành hai điều, một điều quy định về sở hữu toàn dân, một điều quy định về sở hữu nhà nước. Ý kiến này cho rằng, cần có sự phân biệt rạch ròi giữa đất đai là tài nguyên quốc gia - thuộc sở hữu toàn dân với những đất đai mà toàn dân đã giao cho Nhà nước - một chủ thể cụ thể quản lý, sở hữu.
Để làm rõ hơn nội dung này, Dự thảo đã xác định đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, thềm lục địa, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Vì vậy, đề nghị giữ nguyên cách dùng khái niệm “sở hữu toàn dân” và không quy định đa sở hữu về đất đai.