Lâu nay, trên các phương tiện truyền thông và một số tài liệu quốc tế vẫn quen dùng từ Kilo để gọi 6 tàu ngầm phi hạt nhân tối tân mà Việt Nam mua của Nga.
Tuy nhiên, thực tế thì Kilo chỉ là định danh của khối NATO dành cho lớp tàu ngầm phi hạt nhân tấn công Project 877 Paltus và Project 636 Varshavyanka. Nói một cách chính xác hơn, đối với chiếc Project 636 thì NATO định danh là Improved Kilo. Dù vậy, người ta thường dùng từ Kilo “ngắn gọn, đơn giản” để chỉ chung 2 kiểu tàu ngầm này.
Vậy, cái tên thật của tàu ngầm Kilo Việt Nam (Project 636 Varshavyanka) có ý nghĩa gì?
Từ Varshavyank là bản dịch tiếng Nga của bài hát cách mạng Ba Lan (nguyên văn tiếng Ba Lan là “Warszawianka 1905 roku”, thêm cụm từ “năm 1905” để phân biệt với bài hát khác “Warszawianka 1831 roku” (năm 1831) là bài hát chính thức của khởi nghĩa tháng 11). Tác giả bài hát này là ông Vatslav Sventsitski (1848-1900) đã viết lời bài hát này năm 1879 khi bị tù trong nhà tù “Thành cổ Varshava” vì hoạt động cách mạng.
Sau khi Sventsitski trở về từ nơi đi đày ở Siberia (khi đó, Ba Lan nằm trong Đế quốc Nga) lời bài hát được công bố trong tạp chí bí mật Proletariat (Vô sản) của Ba Lan năm 1883. Tên gọi Varshavyanka vẫn được giữ lại sau cuộc biểu tình ngày 1/5/1905.
Phần nhạc bài hát có sử dụng một phần từ bài “Hành khúc bộ binh nhẹ” với lời của nhà thơ Ba Lan Vlodzimezh Volski (1824-1882), bài hát trở nên nổi tiếng như là hành khúc khởi nghĩa 1863. Không rõ tác giả phần nhạc là ai.
Người dịch bài hát này ra tiếng Nga là ông G. M. Krzhizhanovski được thực hiện khi ông còn bị giam ở nhà tù Butyr (ở Moscow) năm 1897. Lời bài hát được in công khai từ 1900, trở nên phổ biến trong cách mạng năm 1905 ở Nga.
Theo một số tài liệu, sở dĩ Liên Xô (Nga) chọn từ Varshavyanka vì để gắn tới lớp tàu Project 636 vì đã có kế hoạch đóng một số lượng lớn tàu ngầm lớp này để xuất khẩu sang các nước thuộc khối Hiệp ước Varshava (tên thủ đô Ba Lan).
Dẫu vậy thì những chiếc Project 636 đầu tiên được khởi đóng từ giữa những năm 1990 xuất khẩu cho Hải quân Trung Quốc, một quốc gia không thuộc Varshava. Điều này có thể là do những khủng hoảng chính trị ở Liên Xô – Đông Âu cuối những năm 1980 đã ảnh hưởng tới kế hoạch ban đầu, định hướng xuất khẩu.
Hiện nay chỉ có 4 quốc gia sở hữu hoặc mua tàu ngầm Project 636 Varshavyanka gồm: Trung Quốc biên chế 8 chiếc Project 636/636M; Việt Nam mua 6 chiếc Project 636.1; Algieria có 2 chiếc Project 636M và Nga đang đặt hàng 6 chiếc Project 636.3.
Tàu ngầm phi hạt nhân Project 636 Varshavyanka có lượng giãn nước 4.000 tấn khi lặn, dài 73,8m, rộng 9,9m, mớn nước 6,3m. Tàu được trang bị 2 máy phát diesel công suất 1.000 kw/máy, 2 động cơ điện chính 5.500 mã lực, 2 động cơ dự trữ 102 mã lực/chiếc và chân vịt 6 lá.
Về hệ thống vũ khí, Project 636 được thiết kế 6 ống phóng ngư lôi cỡ 533mm ở phần mũi (cơ số 18 quả, 6 quả trong ống). Việc tái nạp ngư lôi chỉ diễn ra trong khoảng 15 giây với hệ thống nạp tự động. Các ống phóng này ngoài khả năng bắn ngư lôi còn có thể bắn tên lửa hành trình siêu thanh 3M-54E hoặc 3M-54E1 (cơ số 4 đạn).
Tàu ngầm phi hạt nhân tối tân Project 636 Varshavyanka mang tên HQ-182 Hà Nội của Hải quân Nhân dân Việt Nam. |
Tuy nhiên, thực tế thì Kilo chỉ là định danh của khối NATO dành cho lớp tàu ngầm phi hạt nhân tấn công Project 877 Paltus và Project 636 Varshavyanka. Nói một cách chính xác hơn, đối với chiếc Project 636 thì NATO định danh là Improved Kilo. Dù vậy, người ta thường dùng từ Kilo “ngắn gọn, đơn giản” để chỉ chung 2 kiểu tàu ngầm này.
Vậy, cái tên thật của tàu ngầm Kilo Việt Nam (Project 636 Varshavyanka) có ý nghĩa gì?
Từ Varshavyank là bản dịch tiếng Nga của bài hát cách mạng Ba Lan (nguyên văn tiếng Ba Lan là “Warszawianka 1905 roku”, thêm cụm từ “năm 1905” để phân biệt với bài hát khác “Warszawianka 1831 roku” (năm 1831) là bài hát chính thức của khởi nghĩa tháng 11). Tác giả bài hát này là ông Vatslav Sventsitski (1848-1900) đã viết lời bài hát này năm 1879 khi bị tù trong nhà tù “Thành cổ Varshava” vì hoạt động cách mạng.
Sau khi Sventsitski trở về từ nơi đi đày ở Siberia (khi đó, Ba Lan nằm trong Đế quốc Nga) lời bài hát được công bố trong tạp chí bí mật Proletariat (Vô sản) của Ba Lan năm 1883. Tên gọi Varshavyanka vẫn được giữ lại sau cuộc biểu tình ngày 1/5/1905.
Phần nhạc bài hát có sử dụng một phần từ bài “Hành khúc bộ binh nhẹ” với lời của nhà thơ Ba Lan Vlodzimezh Volski (1824-1882), bài hát trở nên nổi tiếng như là hành khúc khởi nghĩa 1863. Không rõ tác giả phần nhạc là ai.
Người dịch bài hát này ra tiếng Nga là ông G. M. Krzhizhanovski được thực hiện khi ông còn bị giam ở nhà tù Butyr (ở Moscow) năm 1897. Lời bài hát được in công khai từ 1900, trở nên phổ biến trong cách mạng năm 1905 ở Nga.
Theo một số tài liệu, sở dĩ Liên Xô (Nga) chọn từ Varshavyanka vì để gắn tới lớp tàu Project 636 vì đã có kế hoạch đóng một số lượng lớn tàu ngầm lớp này để xuất khẩu sang các nước thuộc khối Hiệp ước Varshava (tên thủ đô Ba Lan).
Dẫu vậy thì những chiếc Project 636 đầu tiên được khởi đóng từ giữa những năm 1990 xuất khẩu cho Hải quân Trung Quốc, một quốc gia không thuộc Varshava. Điều này có thể là do những khủng hoảng chính trị ở Liên Xô – Đông Âu cuối những năm 1980 đã ảnh hưởng tới kế hoạch ban đầu, định hướng xuất khẩu.
Hiện nay chỉ có 4 quốc gia sở hữu hoặc mua tàu ngầm Project 636 Varshavyanka gồm: Trung Quốc biên chế 8 chiếc Project 636/636M; Việt Nam mua 6 chiếc Project 636.1; Algieria có 2 chiếc Project 636M và Nga đang đặt hàng 6 chiếc Project 636.3.
Tàu ngầm phi hạt nhân Project 636 Varshavyanka có lượng giãn nước 4.000 tấn khi lặn, dài 73,8m, rộng 9,9m, mớn nước 6,3m. Tàu được trang bị 2 máy phát diesel công suất 1.000 kw/máy, 2 động cơ điện chính 5.500 mã lực, 2 động cơ dự trữ 102 mã lực/chiếc và chân vịt 6 lá.
Về hệ thống vũ khí, Project 636 được thiết kế 6 ống phóng ngư lôi cỡ 533mm ở phần mũi (cơ số 18 quả, 6 quả trong ống). Việc tái nạp ngư lôi chỉ diễn ra trong khoảng 15 giây với hệ thống nạp tự động. Các ống phóng này ngoài khả năng bắn ngư lôi còn có thể bắn tên lửa hành trình siêu thanh 3M-54E hoặc 3M-54E1 (cơ số 4 đạn).
Theo Kienthuc.net