LTS: TS. Lê Viết Khuyến – hiện là Trưởng ban hỗ trợ chất lượng giáo dục đại học (Hiệp hội các trường đại học, cao đẳng Việt Nam), nguyên là Phó Vụ trưởng Vụ Giáo dục đại học – Bộ GD&ĐT, ông cũng là một độc giả thường xuyên và là người có những góp ý sắc sảo cho những nội dung trên Báo điện tử Giáo dục Việt Nam.
Khi tìm hiểu và đọc kĩ Luật giáo dục nghề nghiệp vừa mới được Quốc hội thông qua, TS. Lê Viết Khuyến nhận thấy có một số điểm liên quan tới nội dung thực hiện có sự nhầm lẫn, những nhầm lẫn này có ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống giáo dục.
Với mong rằng đó là những góp ý thiết thực và rất cần được tiếp thu nghiêm túc, Báo điện tử Giáo dục Việt Nam trân trọng giới thiệu cùng độc giả.
Những nhầm lẫn quá rõ
Mở đầu, TS. Lê Viết Khuyến viết:
Luật Giáo dục nghề nghiệp đã được Quốc hội khóa XIII, Kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 27 tháng 11 năm 2014 ( với tỉ lệ phiếu ủng hộ trên 53%). Theo quy định Luật này sẽ có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2015.
Sau khi Luật Giáo dục nghề nghiệp được chính thức công bố trên các phương tiện truyền thông đại chúng chúng tôi mới có điều kiện được nghiên cứu đầy đủ các nội dung của Luật.
Theo quan điểm của chúng tôi, so với Luật Dạy nghề trước đây, việc ra đời Luật Giáo dục Nghề nghiệp là một bước thay đổi rất lớn trong lĩnh vực đào tạo nguồn nhân lực trực tiếp cho sản xuất, kinh doanh và dịch vụ, góp phần đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục Việt Nam theo tinh thần của Nghị quyết 29 của Ban Chấp hành Trung ương Khóa 11kỳ họp thứ 8.
Tuy nhiên nhận xét trên sẽ phù hợp nếu Luật chỉ dừng lại ở lĩnh vực giáo dục nghề hay dạy nghề ( Vocational Education).
Ảnh minh họa Báo Lao động. |
Việc đưa vào luật này nhiều lĩnh vực của giáo dục nghề nghiệp nhưng lại theo cùng một khuôn mẫu giáo dục nghề sẽ dẫn tới một số hệ lụy làm méo mó cơ cấu nhân lực đáp ứng yêu cầu nhân lực cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, gây khó cho việc ban hành các chính sách đãi ngộ nhân lực và cho việc công nhận trình độ tương đương về đào tạo với các quốc gia khác theo tinh thần hội nhập quốc tế - Kết quả là nếu không kịp thời điều chỉnh những nội dung nhầm lẫn của Luật Giáo dục nghề nghiệp thì trong thời gian tới Luật sẽ gặp khó khăn khi đi vào cuộc sống.
Thứ nhất, nhầm lẫn Giáo dục nghề nghiệp là một lĩnh vực đào tạo nhân lực ( có thể thuộc nhiều bậc học, cấp học hay trình độ học khác nhau ) với một bậc học của hệ thống giáo dục quốc dân, thể hiện ở Khoản 1 Điều 3 Luật GDNN. Nhầm lẫn này trước đó cũng đã mắc phải ở Luật Giáo dục ( Khoản 2 Điều 4).
Trong giáo dục văn bản luật có thể được xây dựng cho toàn hệ thống giáo dục (thí dụ như Luật Giáo dục ), cho từng bậc học của hệ thống ( thí dụ như Luật Giáo dục đại học), hoặc cho từng lĩnh vực giáo dục (thí dụ Luật Dạy nghề, Luật Giáo dục nghề nghiệp ).
Văn bản luật xây dựng cho từng bộ phận giáo dục (Luật “con”) thường còn có tên là Đạo luật ( Act) và không có giá trị điều chỉnh lại “ Luật mẹ” ( Law).
Nhầm lẫn trên ở Luật Giáo dục nghề nghiệp đã dẫn tới việc loại bỏ trình độ cao đẳng ra khỏi bậc học đại học ( Higher Education/ Tertiary Education) thể hiện ở các Điều 76 & 77 Luật GDNN, gây rối cho hệ thống giáo dục quốc dân và làm trái với thông lệ quốc tế hiện nay ( xem Internatoional Standard Classification of Education ISCED 2011 được UNESCO ban hành năm 2011).
Thứ hai, nhầm lẫn giữa Giáo dục nghề hay Dạy nghề ( Vocational Education) với Giáo dục chuyên nghiệp ( Professional Education ) về mục tiêu đào tạo.
Nền giáo dục luẩn quẩn khi chỉ dựa vào bằng cấp, thi cử nên phải thay đổi
(GDVN) - Quan điểm của ông Trần Đức Cảnh, chuyên gia đào tạo nguồn nhân lực lâu năm ở Hoa Kỳ, thường xuyên theo dõi hoạt giáo dục nước nhà và có những góp ý thiết thực.
Theo thông lệ chung ( cả Việt Nam và thế giới) thì Giáo dục nghề đào tạo nhân lực trực tiếp tham gia các hoạt động sản xuất, kinh doanh và dịch vụ, tức là đào tạo thợ và nhân viên, trong khi Giáo dục chuyên nghiệp đào tạo chuyên gia ( kỹ thuật viên, cán sự, giáo viên, kỹ sư, chuyên viên, bác sĩ, luật sư,…).
Theo ISCED 2011( Khổ 53) thì Giáo dục nghề ( cũng như Giáo dục phổ thông – General Education) chỉ có ở bậc học dưới đại học, còn Giáo dục chuyên nghiệp ( cũng như Giáo dục hàn lâm- Academic Education) chỉ tồn tại ở bậc học đại học ( Tertiary Education ).
Việc nhầm lẫn mục tiêu đào tạo dẫn tới định hướng hợp nhất giữa Giáo dục nghề với Giáo dục chuyên nghiệp làm méo mó cơ cấu nguồn nhân lực cho CNH, HĐH đất nước ( Theo ISCED 2011 cùng một trình độ đào tạo nhưng có thể có nhiều loại chương trình khác nhau, có mục tiêu đào tạo và cấu trúc nội dung khác nhau, thích ứng với việc đào tạo ra nhiều loại nhân lực khác nhau).
Thứ ba, nhầm lẫn giữa trình độ đào tạo (level) với trình độ tay nghề. Theo ISCED 2011 trong giáo dục có 9 trình độ là: mầm non (0), tiểu học (1), trung học cơ sở hay sơ trung (2), trung học (3), sau trung học, dưới đại học (4), cao đẳng (5), cử nhân (6), thạc sỹ (7) và tiến sĩ (8).
Trông cậy gì ở tương lai khi người lớn “Tam bất” như thế?
(GDVN) -Cho rằng “Trông cậy gì ở tương lai khi thế hệ trẻ dã man như thế” là vội vàng? hãy đặt vấn đề ngược lại “Trông cậy gì ở tương lai khi người lớn Tam bất như thế"
Tuy nhiên, định nghĩa trình độ của Giáo dục nghề nghiệp ( Khoản 2 Điều 4) của Luật Giáo dục nghề nghiệp chủ yếu theo trình độ tay nghề của giáo dục nghề. Điều này hoàn toàn không phù hợp với thông lệ quốc tế, đặc biệt đối với giáo dục chuyên nghiệp. Trình độ cao đẳng ở Luật Giáo dục nghề nghiệp thực ra chỉ tương ứng với trình độ 4 ( dưới cao đẳng) của ISCED 2011 .
Thứ tư, các quy định về điều kiện tuyển sinh ( Điều 32), về thời gian đào tạo ( Điều 33) ở Luật Giáo dục nghề nghiệp chỉ phù hợp với Giáo dục nghề, không phù hợp và nói chung là thấp thua so với các qui định tại ISCED 2011.
Điều này gây khó khi xác lập mối quan hệ tương đương giữa hệ thống văn bằng giáo dục – đào tạo của Việt Nam với thế giới (tức là sẽ không được thế giới công nhận rộng rãi ).
Việc quy định người tốt nghiệp cao đẳng được công nhận danh hiệu cử nhân thực hành hoặc kỹ sư thực hành tại Khoản 1 Điều 38 Luật Giáo dục nghề nghiệp là một quyết định phi học thuật, chưa từng có trên thế giới và sẽ gây nhiều hệ lụy khó lường ( cả ở trong nước và thế giới).
Theo ISCED 2011 ( Khổ 210) thì người có trình độ 5 (Associate Degree) chỉ được nhận danh hiệu kỹ thuật viên hoặc thợ bậc cao.
(GDVN) - “Thói công quyền” không phải là thói xấu của người Việt, nó thuộc về “một bộ phận không nhỏ” có thể vạch mặt, chỉ tên, nhưng quan trọng là ai làm?
Theo qui định cả quốc tế lẫn Việt Nam danh hiệu kỹ sư chỉ được trao cho những ai đã qua trình độ cử nhân kỹ thuật ( thời gian đào tạo 4 năm), sau đó phải học thêm ít nhất 1 năm theo hướng chuyên sâu ( thí dụ như tại trường Đại học Bách khoa Hà Nội), hoặc phải qua hoạt động đúng nghề nghiệp được đào tạo một số năm để được hiệp hội kỹ sư công nhận.
Trong hệ thống giáo dục quốc dân của nước ta không thể có đồng thời “kỹ sư 5 năm” và “kỹ sư 2 năm”!
Cần làm gì?
Ở phần trên chúng tôi đã chỉ ra một số nhầm lẫn về nội dung của Luật Giáo dục nghề nghiệp, có thể dẫn tới những hệ lụy cho chiến lược phát triển nhân lực cho đất nước và chủ trương hội nhập quốc tế. Với trách nhiệm cao trước sự nghiệp giáo dục của đất nước, chúng tôi xin kiến nghị đến Quốc hội Khóa XIII:
Thứ nhất, khẩn trương đưa vào chương trình của kỳ họp thứ 9 sắp tới việc xem xét và điều chỉnh lại một số nội dung nhầm lẫn tại Luật Giáo dục nghề nghiệp trước thời điểm Luật bắt đầu có hiệu lực.
Thứ hai, trong trường hợp chưa kịp điều chỉnh nội dung của Luật GDNN đề nghị Quốc hội ra quyết nghị giới hạn phạm vi điều chỉnh của Luật trước mắt chỉ cho lĩnh vực giáo dục nghề, chưa áp dụng cho lĩnh vực giáo dục chuyên nghiệp, đặc biệt đối với loại hình cao đẳng chuyên nghiệp.