Vấn đề quan trọng nhất là thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước (DNNN) theo đúng chủ trương Chính phủ đã đề ra nhằm tạo “sân chơi” cạnh tranh bình đẳng giữa khu vực DNNN và tư nhân.
Đây là nội dung các ý kiến của nhiều chuyên gia, nhà quản lý khi trao đổi về dự thảo Nghị định về việc thành lập một “siêu ủy ban” nhằm giúp Chính phủ quản lý, giám sát toàn bộ vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp (DN).
Cần lường đoán những rủi ro mới
TS. Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam cho rằng nếu muốn quản lý một nguồn lực rất lớn, phức tạp (vì có nhiều tập đoàn, tổng công ty với nhiều ngành nghề khác nhau, trong đó có những doanh nghiệp còn thua lỗ), thì cần phải tính thêm về mặt chức năng, quy mô nhân lực gắn với hiệu quả hoạt động. Vì vậy, việc lập ủy ban phải được bàn luận nghiêm túc và có giải pháp tin cậy.
Ông Đặng Quyết Tiến, Phó Cục trưởng Cục Tài chính doanh nghiệp (Bộ Tài chính) cho rằng Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XII có đưa nội dung tách chức năng quản lý Nhà nước ra khỏi chức năng quản lý cơ quan chủ sở hữu, hay nói cách khác là chức năng quản trị doanh nghiệp.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang xây dựng dự thảo Nghị định về thực hiện quyền và trách nhiệm của cơ quan đại diện chủ sở hữu Nhà nước. Theo dự thảo, Chính phủ sẽ thành lập Ủy ban Quản lý, giám sát vốn và tài sản Nhà nước tại DN. Ủy ban này dự kiến sẽ trực tiếp thực hiện quyền chủ sở hữu đối với DN và vốn Nhà nước tại 9 tập đoàn, 21 tổng công ty lớn với khối tài sản rất lớn. Đề xuất nói trên đang thu hút sự quan tâm của dư luận. |
Nghị quyết của Quốc hội phê duyệt kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội giai đoạn 2016-2020 cũng nêu rõ về việc nghiên cứu mô hình cơ quan quản lý vốn, tài sản của Nhà nước phù hợp với tình hình mới. Tuy nhiên xung quanh dự thảo về việc thành lập “siêu ủy ban" vẫn còn một số băn khoăn.
Thứ nhất, dự thảo vẫn đặt vấn đề ủy ban là một cơ quan quản lý Nhà nước, điều đó không khác gì việc các bộ, ngành đang quản lý DNNN như hiện nay.
Khi ủy ban thuộc cơ quan hành chính của Chính phủ thì cho dù không có chức năng ban hành văn bản pháp luật, nhưng lại vẫn chịu trách nhiệm báo cáo và tham mưu cho Chính phủ, do đó liệu ủy ban có thể bảo đảm mô hình quản trị như một doanh nghiệp hay không?
Thứ hai, việc để một cơ quan thay mặt nhiều bộ, ngành vừa quản lý, vừa điều hành sản xuất, kinh doanh là khá khó khăn. Vì hoạt động của DNNN phải được cơ quan quản lý phê duyệt kế hoạch sản xuất kinh doanh.
Với 30 tập đoàn, tổng công ty sẽ có 30 kế hoạch sản xuất kinh doanh khác nhau với đủ ngành nghề khác nhau thì liệu ủy ban này có đủ năng lực để phê duyệt, thẩm định hay không? Khi ấy, dù với một bộ máy rất lớn, ủy ban này sẽ vẫn phải mời chuyên gia, cơ quan quản lý Nhà nước hỗ trợ. Điều này lại tạo thêm một cấp trung gian khiến bộ máy quản lý phình to.
Theo ông Đặng Quyết Tiến, một rủi ro nữa là việc thành lập ủy ban có thể sẽ khiến quá trình cổ phần hóa bị chậm lại, vì nếu một DNNN nào đó không muốn cổ phần hóa, khi biết thành lập ủy ban, họ sẽ cho dừng luôn cổ phần hóa, doanh nghiệp sẽ lại có lý do để chờ đợi, nghe ngóng.
Cần có cơ chế giám sát khách quan, minh bạch, chống độc quyền
TS.Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch VCCI cho rằng việc thành lập một cơ quan để thay thế cách quản lý vốn theo mô hình bộ chủ quản vừa qua là đúng đắn, cần triển khai sớm trong nhiệm kỳ này.
Tuy nhiên, ông Lộc không ủng hộ phương án thành lập một ủy ban hay một bộ để quản lý DNNN vì đó vẫn là cơ quan quản lý hành chính nên không phù hợp. Vì thế, có thể thành lập 2 hay 3 tập đoàn tài chính Nhà nước (như mô hình Tập đoàn Temasek của Singapore) để tập hợp vốn của Nhà nước lại và thực hiện quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp.
Các tập đoàn tài chính này thực hiện vai trò là nhà đầu tư vốn Nhà nước vào các doanh nghiệp, kể cả các doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước và các doanh nghiệp có vốn của Nhà nước hơn là một cơ quan kiểu ủy ban đã đề xuất. Các tập đoàn này hoạt động với tư cách là nhà đầu tư chứ không phải là cơ quan quản lý chuyên ngành nên có tính tự chủ cao, hoạt động hiệu quả hơn.
TS Vũ Tiến Lộc cho rằng, thành lập khoảng 2-3 đơn vị là vừa sức và phù hợp với khả năng quản lý hiện tại, đồng thời tránh được sự độc quyền, tạo ra cạnh tranh, thi đua, học hỏi lẫn nhau. Sau một thời gian, chúng ta sẽ có điều kiện so sánh để thấy mô hình nào hiệu quả rồi chọn ra một mô hình tốt nhất và duy trì nó.
Nhìn lại mô hình SCIC hiện nay, TS. Lộc cho rằng đơn vị này bị hạn chế là vẫn chỉ trực thuộc một bộ. Do đó, để giám sát hiệu quả, các tập đoàn mới có thể không trực thuộc Bộ Tài chính nữa nhưng Bộ Tài chính sẽ giúp Chính phủ theo dõi, giám sát việc sử dụng nguồn vốn tại đó.
Kết quả hoạt động của các tập đoàn phải báo cáo và chịu sự giám sát của Quốc hội (vì các tập đoàn này nắm giữ tài sản, nguồn lực tài chính rất lớn của quốc gia).
So sánh với một số mô hình quản lý DNNN khác, ông Đặng Quyết Tiến dẫn ra trường hợp một “siêu ủy ban” là Ủy ban Quản lý, giám sát tài sản Nhà nước (SASAC) của Trung Quốc. Theo đó, SASAC đã duy trì quá lâu nên dẫn đến độc quyền, trì trệ và họ vẫn phải tiếp tục sắp xếp lại.
Thực tế, một mô hình quản lý doanh nghiệp thật sự hiệu quả thì không nên dùng tiền ngân sách mà phải gắn với trách nhiệm thật sự như một doanh nghiệp “lời ăn lỗ chịu”. Do đó, việc lập “siêu ủy ban” khi chưa có cơ chế chặt chẽ sẽ dễ gặp rủi ro và có thể rơi vào tình trạng cách đây hơn 10 năm khi thành lập Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn Nhà nước (SCIC).
Ông Đặng Quyết Tiến cho rằng có thể có nhiều mô hình quản lý vốn nhưng luôn phải bám sát nguyên tắc có tính khả thi để thúc đẩy cải cách DNNN, qua đó tạo điều kiện cho khối doanh nghiệp tư nhân phát triển theo đúng chủ trương của Chính phủ.
Vì vậy, nếu không thể khắc phục được những hạn chế đã nêu thì tốt nhất là chưa thành lập ủy ban hoặc cần phân tích hết sức kỹ lưỡng mô hình này để tránh hiện tượng lãng phí, chồng chéo nguồn lực.
Cũng theo ông Đặng Quyết Tiến, Thủ tướng Chính phủ đã quyết liệt chỉ đạo thực hiện chủ trương hết sức đúng đắn là phải thu gọn lại số lượng DNNN còn khoảng 200, trong đó 100 doanh nghiệp nằm ở khu vực an ninh quốc phòng và nông, lâm trường...
Do đó, nếu mô hình Ủy ban Giám sát, quản lý vốn Nhà nước ra đời cách đây 10 năm khi số lượng DNNN lớn thì có thể phù hợp, nhưng đến thời điểm 2020, sau khi DNNN đã được cổ phần hóa hết, số DN giảm xuống chỉ còn khoảng 200 DN thì đây sẽ lại là một thách thức cho ủy ban này bởi đối tượng quản lý khi đó quá ít.
Nếu nhìn vào xu hướng hiện nay khi nền kinh tế hội nhập, DNNN đã thu gọn và được cổ phần hóa để tạo điều kiện cho DN dân doanh phát triển. Vai trò, sứ mệnh của các bộ, ngành đã hoàn thành, chúng ta hãy để các DN được thực hiện theo cơ chế thị trường. Còn “Nhà nước chỉ giữ vai trò kiến tạo, tạo sân chơi bình đẳng cho doanh nghiệp thông qua cơ chế chính sách và việc cần trước tiên hiện nay là phải đẩy nhanh quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp”, ông Tiến nhấn mạnh.