Ngày 7/7, Quốc hội đã thảo luận Dự thảo Nghị quyết về xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các tổ chức tín dụng
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước - ông Lê Minh Hưng cho biết: Về số liệu nợ xấu, tại thời điểm tháng 9/2012 khi báo cáo Quốc hội thì tỷ lệ nợ xấu ước tính một cách thận trọng là chiếm 17,21% tổng dư nợ và cho vay nền kinh tế.
Nếu đánh giá một cách toàn diện và thực chất qua công tác thanh tra thì con số nợ xấu ở thời điểm đó có thể cao hơn.
Tính đến 31/12/2016, nợ xấu nội bảng của các tổ chức tín dụng hiện nay là trên 150.000 tỷ, chiếm 2,52% tổng dư nợ.
Tổng nợ xấu mà công ty mua bán nợ VAMC đã mua nhưng chưa xử lý được là trên 195.000 tỷ, hiện chiếm 3,29% tổng dư nợ.
Nợ xấu nội bảng và nợ xấu đã bán cho VAMC chưa xử lý được hiện nay là trên 345.000 tỷ, chiếm 5,8% tổng dư nợ.
Nợ xấu nội bảng và nợ xấu của VAMC đã mua chưa xử lý và nợ có nguy cơ cao trở thành nợ xấu thì báo cáo Quốc hội nợ có nguy cơ cao trở thành nợ xấu tức là những khoản nợ vào thời điểm khó khăn của giai đoạn 2011-2012-2013 theo nghị quyết của Quốc hội và Chính phủ chúng ta đã phải cơ cấu lại nợ cho các tổ chức kinh tế và các đối tượng vay vốn để có cơ hội tiếp tục vay vốn và thực hiện các hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Nếu tính cả những khoản này và về bản chất Ngân hàng nhà nước đánh giá rất thận trọng là nếu đến hạn thì cũng sẽ thành nợ xấu, tổng nợ xấu và dư nợ hiện nay là 10,08% dư nợ và tổng dư nợ cho vay đối với nền kinh tế.
Trong số tổng nợ xấu nội bảng và nợ xấu bán cho VAMC thì nợ các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm khoảng gần 64%; nợ của các doanh nghiệp nhà nước chiếm khoảng 6,3%; nợ của hộ kinh doanh và cá nhân chiếm khoảng trên 21%; nợ của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 1,8% tổng dư nợ.
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam - ông Lê Minh Hưng. ảnh: Trung tâm thông tin Quốc hội. |
Nhìn từ góc độ hoạt động ngân hàng, ông Lê Minh Hưng chỉ ra những nguyên nhân khách quan và chủ quan:
Thứ nhất, về nhóm nguyên nhân khách quan, thời gian qua sự bất ổn chính trị và kinh tế trên thế giới cũng như tác động của chu kỳ kinh tế và khủng hoảng trên thị trường tài chính tiền tệ và kinh tế quốc tế tác động rất mạnh và gây tiềm ẩn, rủi ro rất lớn trong hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước.
Trong khi đó, kinh tế trong nước cũng còn khó khăn và chất lượng kinh tế cũng tăng trưởng chưa cao, nợ công tăng nhanh.
Một yếu tố rất quan trọng ở thị trường bất động sản có một giai đoạn rất dài là trầm lắng.
Các doanh nghiệp của Việt Nam hiện nay đang phụ thuộc rất lớn vào vốn vay ngân hàng, hiệu quả sản xuất còn thấp nên khi có biến động từ bên trong và bên ngoài thì đều tác động trực tiếp đến hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp vay vốn, do đó gián tiếp và trực tiếp đều gây ra nợ xấu.
Thứ hai, hiện nay quy mô hoạt động của nhiều doanh nghiệp còn rất nhỏ và phụ thuộc vào thị trường thế giới. Tình hình thời tiết ở trong nước cũng có giai đoạn như nhiều năm vừa qua rất khó khăn, gây ra tác động là khả năng không trả được nợ của các doanh nghiệp vay vốn.
Theo thống kê của Tổng cục thống kê thì trong giai đoạn từ năm 2011 - 2015 bình quân mỗi năm có trên 63.000 doanh nghiệp giải thể và phá sản, các yếu tố này cũng làm gia tăng nợ xấu trong nền kinh tế và nợ xấu của hệ thống ngân hàng.
Thứ ba, trong một giai đoạn các chính sách kinh tế, đặc biệt chính sách vĩ mô cũng còn thiếu tính ổn định, làm ảnh hưởng đến khả năng sản xuất kinh doanh và khả năng trả nợ của khách hàng.
Thứ tư, hệ thống một số các cơ chế chính sách về xử lý tài sản còn bất cập nên chưa hạn chế đến việc xử lý tài sản cũng như nợ của các tổ chức tín dụng.
Thứ năm, như nhiều đại biểu có nêu là nhiều trường hợp khách hàng vay còn chây ỳ và trốn tránh nghĩa vụ trả nợ.
Thứ sáu, thị trường vốn còn chưa phát triển tương xứng nên hệ thống ngân hàng vẫn là kênh tài trợ chủ yếu cho đầu tư và phát triển.
Chính vì vậy, rủi ro chính của hệ thống tài chính chính là rủi ro của hệ thống ngân hàng. Đồng thời do mô hình tăng trưởng trong nhiều năm vẫn phụ thuộc vào đầu tư theo chiều rộng và sử dụng vốn vay nên nợ xấu của nền kinh tế chủ yếu là nợ xấu của hệ thống ngân hàng, đấy là một số các nhóm nguyên nhân khách quan.
Về nguyên nhân chủ quan, ông Lê Minh Hưng cho biết:
Thứ nhất, từ phía chính các tổ chức tín dụng, quy trình tín dụng của một số tổ chức chưa đầy đủ, chưa chặt chẽ, tạo kẽ hở để cán bộ ngân hàng và khách hàng lợi dụng.
Ở một số tổ chức tín dụng, năng lực quản trị rủi ro còn hạn chế. Công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ chưa tốt, tính tuân thủ các quy chế chưa cao, các chuẩn mực đạo đức đối với cán bộ cận tín dụng ngân hàng chưa được quan tâm, cho nên dẫn đến những rủi ro trong việc cho vay.
Thứ hai, rủi ro về đạo đức của cán bộ ngân hàng, một bộ phận cán bộ ngân hàng thoái hóa biến chất và lợi dụng chức vụ quyền hạn, câu kết với khách hàng để cố ý làm trái các quy định và đe dọa đến hoạt động và tính lành mạnh, an toàn của hệ thống ngân hàng.
Các hành vi vi phạm pháp luật này trong thời gian qua đều đã, đang, sẽ được xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật.
Thứ ba, chúng tôi nhìn nhận là đề án cơ cấu lại hệ thống tổ chức tín dụng trong 5 năm qua mặc dù đã đạt được một số kết quả bước đầu nhưng chưa thể giải quyết được những yếu kém cơ bản của hệ thống các tổ chức tín dụng cũng như xử lý nợ xấu một cách triệt để.
Thứ tư, năng lực tài chính của bản thân các tổ chức tín dụng còn hạn chế, đặc biệt kể cả các ngân hàng thương mại của nhà nước.
Thứ năm, điểm này chúng tôi nhìn nhận một cách rất thẳng thắn, công tác thanh tra giám sát của ngân hàng nhà nước.
Tuy đã có nhiều cố gắng và đạt được một số kết quả nhưng vẫn còn hạn chế và chưa hoàn toàn đáp ứng được yêu cầu phát triển của hệ thống các tổ chức tín dụng trong tình hình mới.
Năng lực trình độ của một bộ phận cán bộ thanh tra ngân hàng còn bất cập, còn một số ít trường hợp cán bộ thanh tra giám sát của ngân hàng còn để xảy ra vi phạm pháp luật.
Hàng trăm cán bộ ngân hàng đã bị khởi tố
Về vấn đề xử lý trách nhiệm nợ xấu, ông Lê Minh Hưng cho biết: "Chính phủ đã bàn kỹ, không có một quy định nào trong dự thảo nghị quyết này có thể gây ra, tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng hay các tổ chức, cá nhân có liên quan có thể trục lợi.
Còn các hành vi vi phạm pháp luật mà các cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật đều sẽ bị xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật".
Thời gian qua, qua công tác thanh tra, giám sát, cơ quan thanh tra giám sát của ngân hàng đã tiến hành xử lý rất nhiều vụ việc vi phạm, đồng thời chuyển và chỉ đạo các tổ chức tín dụng cũng như trực tiếp ngân hàng nhà nước đã chuyển các hồ sơ có dấu hiệu vi phạm pháp luật và gây ra tổn thất và nợ xấu cho ngân hàng sang cơ quan điều tra.
Từ năm 2011 đến năm 2016, theo thống kê của Bộ Công an, các cơ quan điều tra của Bộ Công an, không bao gồm công an các địa phương, đã phát hiện và khởi tố điều tra 95 vụ án kinh tế xảy ra trong lĩnh vực ngân hàng và đã khởi tố bị can khoảng gần 200 cán bộ ngân hàng.
Chỉ tính riêng một số vụ án lớn gần đây trong lĩnh vực ngân hàng, các cơ quan tiến hành tố tụng khởi tố điều tra, truy tố và xét xử khoảng 128 cán bộ ngân hàng trong đó có nhiều đối tượng là Chủ tịch Hội đồng quản trị, Tổng Giám đốc, thành viên Hội đồng quản trị và Phó Tổng giám đốc, giám đốc chi nhánh của các tổ chức tín dụng và có nhiều mức án đã được kết án rất nghiêm khắc kể cả án tử hình, chung thân và trên 20 năm tù.
Ngay tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn từ năm 2013 đến nay đã xử lý trách nhiệm 352 cán bộ.
Đồng thời, trong giai đoạn tái cơ cấu vừa qua đã điều tra xử lý 65 vụ án tại Ngân hàng Nông nghiệp xử lý hình sự 122 cán bộ, trong đó có nguyên Chủ tịch Hội đồng quản trị, Ủy viên Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc và các lãnh đạo của Ngân hàng Nông nghiệp.
“Trong đề án chúng tôi đề ra giải pháp định hướng rất rõ, một mặt xử lý nợ xấu nhưng mặt khác ngăn ngừa các nợ xấu phát sinh.
Chúng tôi định hướng trong điều hành chính sách tiền tệ trong thời gian tới phải kiểm soát được ổn định vĩ mô, tạo điều kiện tăng cường năng lực thanh tra, giám sát cũng như yêu cầu các tổ chức tín dụng là phải tăng cường năng lực quản trị điều hành để hạn chế phát sinh nợ xấu”, ông Hưng cho biết.
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cũng cho biết, nợ xấu luôn tiềm ẩn và phát sinh hàng ngày với hoạt động của các tổ chức tín dụng. Chính vì vậy, về bản chất, hoạt động của các tổ chức tín dụng rất dễ rủi ro và xảy ra do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan.
Tính trung bình thì chúng tôi đánh giá trong những năm qua thì nợ xấu phát sinh hằng năm là từ 1,3% - 1,5% phát sinh thêm.
Một trong những nguyên nhân dẫn đến nợ xấu tiếp tục gia tăng là các khó khăn, vướng mắc trong các quy định hiện hành. Nếu nghị quyết mà có cơ chế về mặt pháp lý để tháo gỡ những khó khăn hiện tại thì mới đủ cơ sở cũng như phạm vi về thời gian để chúng ta có thể xử lý một cách triệt để các khoản nợ xấu và các khoản nợ mà theo đánh giá về bản chất là nợ xấu khi đến hạn.
Việc chỉ xử lý nợ xấu đến thời điểm phạm vi nhất định thì cũng tạo cơ chế không được đồng bộ. Vì một tổ chức tín dụng có khoản nợ xấu thì xử lý được theo quy định của nghị quyết nhưng cũng có khoản nợ xấu lại thực hiện theo các quy định khác của pháp luật thì rất vướng mắc cho các tổ chức tín dụng trong việc tổ chức thực hiện trên thực tế.