Kết luận đã khẳng định quan điểm nhất quán của Đảng, Nhà nước Việt Nam tôn trọng, bảo đảm và thúc đẩy quyền con người, trong đó có quyền tự do báo chí và sẽ tiếp tục phát triển, phát huy những thành tựu đó.
Hiện thực đó đã bác bỏ những quan điểm lệch lạc, xuyên tạc công tác nhân quyền của Việt Nam nói chung, quyền tự do báo chí nói riêng.
Quyền tự do báo chí nhìn từ luật pháp quốc tế
Trên bình diện quốc tế, quyền tự do báo chí được quy định cụ thể trong luật pháp quốc tế.
Điều 19, Công ước quốc tế về quyền dân sự, chính trị năm 1966 (ICCPR) đã khẳng định: Mọi người đều có quyền giữ quan điểm của mình mà không bị ai can thiệp.
Mọi người có quyền tự do ngôn luận; quyền này bao gồm tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt mọi thông tin, ý kiến, không phân biệt lĩnh vực, hình thức tuyên truyền, thông qua bất kỳ phương tiện thông tin đại chúng nào.
Tuy nhiên, quyền này có thể phải chịu những hạn chế nhất định.
Điều 19, ICCPR khẳng định: “Việc thực hiện những quyền quy định tại khoản 2 điều này kèm theo những nghĩa vụ và trách nhiệm đặc biệt.
Do đó, việc này có thể phải chịu một số hạn chế nhất định, tuy nhiên, những hạn chế này phải được quy định trong pháp luật và là cần thiết để:
a) Tôn trọng các quyền hoặc uy tín của người khác; b) Bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức của xã hội”.
Ảnh minh họa / TTXVN. |
Pháp luật nhiều quốc gia cũng đã quy định cụ thể về quyền tự do báo chí, theo đó, việc thực hiện quyền này phải trong khuôn khổ pháp luật.
Ðiều 5, Hiến pháp Ðức quy định, mọi người có quyền thể hiện quan điểm qua hình ảnh, lời nói, bài viết trên sách báo hay phát tán qua phát thanh, truyền hình.
Tuy nhiên, Điều 18, Hiến pháp Ðức cũng nhấn mạnh: “Ai lợi dụng các quyền tự do ngôn luận, đặc biệt là tự do báo chí, tự do tuyên truyền… làm công cụ chống lại trật tự của xã hội tự do dân chủ sẽ bị tước bỏ quyền công dân”.
Điều 29, Tuyên ngôn Nhân quyền thế giới cũng nhấn mạnh: “Trong khi thụ hưởng các quyền và tự do cá nhân, phải chịu những hạn chế do luật định nhằm mục đích duy nhất là bảo đảm việc thừa nhận và tôn trọng đối với các quyền và tự do của những người khác và phù hợp với những đòi hỏi chính đáng về đạo đức, trật tự công cộng và phúc lợi chung”.
Ngay ở nước Mỹ, một quốc gia vốn được coi là “đất nước của tự do báo chí”, Điều 2358, Bộ luật Hình sự Mỹ đã nghiêm cấm: “In ấn, xuất bản, biên tập, phát thanh, truyền bá, buôn bán, phân phối hoặc trưng bày công khai bất kỳ tài liệu viết hoặc in nào có nội dung vận động, xúi giục hoặc giảng giải về trách nhiệm, sự cần thiết tham vọng hoặc tính đúng đắn của hành vi lật đổ hoặc tiêu diệt bất kỳ chính quyền cấp nào tại Mỹ bằng vũ lực hoặc bạo lực”.
Như vậy, luật pháp quốc tế cũng như pháp luật các quốc gia đều khẳng định quyền tự do báo chí không phải là một quyền tuyệt đối.
Khi thực hiện quyền này, con người phải chịu những hạn chế nhất định nhằm bảo vệ lợi ích chung của xã hội, nhà nước, của người dân.
Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do báo chí-quan điểm nhất quán
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhất quán quan điểm tôn trọng và bảo vệ các quyền tự do cơ bản của con người, trong đó có quyền tự do báo chí.
Trên cơ sở nội luật hóa pháp luật quốc tế về quyền tự do báo chí, Hiến pháp năm 1946, hiến pháp đầu tiên của nước ta, đã khẳng định người dân có quyền tự do báo chí và được pháp luật bảo đảm thực hiện.
Các bản hiến pháp sau này đều kế thừa và phát triển nội dung của Hiến pháp năm 1946 về quyền tự do báo chí.
Điều 25, Hiến pháp năm 2013 ghi rõ: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định” và khẳng định:
“Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của pháp luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”.
Quy định này cũng được thể chế trong nhiều văn bản pháp luật Việt Nam, như: Bộ luật Hình sự 2015, Luật Báo chí năm 2016...
Những thủ đoạn xuyên tạc, chống phá
Trong những năm qua, các thế lực thù địch vẫn lợi dụng những sơ hở, thiếu sót của Việt Nam trong thực hiện chính sách, pháp luật và vu cáo Nhà nước Việt Nam:
“Không có tự do ngôn luận, tự do báo chí”; “Việt Nam kiểm soát và bóp nghẹt quyền tự do báo chí, tự do internet”; “bắt bớ nhiều blogger”…
Họ cố tình đưa ra những nhận định, đánh giá sai lệch, thiếu khách quan về tình hình tự do báo chí ở Việt Nam để vu cáo Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền hòng hạ thấp uy tín Việt Nam trên trường quốc tế.
Họ còn viện dẫn các quy định của luật pháp quốc tế và luật pháp Việt Nam về quyền tự do báo chí, nhưng cố tình tảng lờ những điều khoản nghĩa vụ kèm theo để thực hiện các quy định đó rồi tán phát qua internet, mạng xã hội nhằm làm cho con người hiểu lầm rằng “tự do báo chí” là một quyền tuyệt đối; từ đó cổ xúy các phần tử bất mãn, các đối tượng chống đối lợi dụng quyền tự do báo chí hoạt động tích cực, quyết liệt hơn.
Các đối tượng còn tác động Quốc hội Mỹ và các nước phương Tây, các tổ chức quốc tế thông qua các dự luật, nghị quyết, báo cáo thường niên... với nội dung xuyên tạc tình hình dân chủ, nhân quyền, tự do báo chí ở Việt Nam, vu cáo Việt Nam “vi phạm tự do ngôn luận, tự do báo chí”, điển hình như:
Báo cáo nhân quyền thế giới hàng năm của Anh, Úc, Nghị quyết của Nghị viện EU;
Báo cáo thường niên, thông cáo báo chí của các tổ chức quốc tế: Phóng viên không biên giới (RSF), Ủy ban bảo vệ nhà báo (CPJ)...
Mặc dù phải thừa nhận Việt Nam có “tiến bộ về dân chủ, nhân quyền” nhưng vẫn xuyên tạc tình hình, vu cáo Nhà nước vi phạm “tự do báo chí”, “đàn áp, bắt giữ trái phép các blogger”…
Một số phần tử còn tác động các chính khách cực đoan trong Quốc hội Mỹ, Anh, Canada… tổ chức điều trần, hội thảo, xuyên tạc tình hình tự do ngôn luận, tự do báo chí ở Việt Nam nhằm tác động Liên hợp quốc ra nghị quyết bất lợi đối với Việt Nam.
Có không ít hoạt động tác động, lôi kéo, mua chuộc các phần tử chống đối, cơ hội chính trị, số phóng viên tha hóa, biến chất tăng cường viết bài xuyên tạc tình hình dân chủ, nhân quyền, vu cáo Việt Nam vi phạm “quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí” rồi tán phát trên mạng xã hội, internet...
Đặc biệt, các đối tượng còn thành lập các câu lạc bộ, các diễn đàn trên mạng xã hội dưới chiêu bài “tự do ngôn luận, tự do báo chí” để tập hợp lực lượng, hình thành các tổ chức chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam.
Thành tựu bác bỏ những sự xuyên tạc
Trên thực tế, Việt Nam đã đạt được thành tựu to lớn trong việc bảo đảm quyền tự do báo chí của người dân.
Theo thống kê, tính đến năm 2016, cả nước có 857 cơ quan báo chí, gồm: 199 cơ quan báo chí in, 658 tạp chí (trong đó có 105 báo, tạp chí điện tử); 01 hãng thông tấn quốc gia; 67 cơ quan phát thanh truyền hình.
Hầu hết các bộ, ban, ngành, đoàn thể chính trị, tổ chức xã hội đều có báo, tạp chí hoặc trang thông tin, báo điện tử.
Ở Việt Nam, báo chí thực sự trở thành cầu nối giữa "ý Đảng, lòng dân", tạo đồng thuận xã hội, thúc đẩy công cuộc xây dựng, phát triển đất nước;
Là phương tiện để người dân kiểm tra, giám sát thực thi pháp luật và đóng góp ý kiến phản biện đối với các chính sách, pháp luật của Nhà nước; là công cụ bảo vệ lợi ích xã hội, bảo vệ quyền của người dân.
Đó là minh chứng sinh động cho việc bảo đảm quyền tự do báo chí ở Việt Nam, phản bác luận điệu vu cáo Nhà nước Việt Nam.
Thời gian qua, Nhà nước Việt Nam đã xử lý các đối tượng lợi dụng tự do ngôn luận, tự do báo chí vi phạm quyền và lợi ích của Nhà nước và công dân theo pháp luật, điều này hoàn toàn phù hợp với luật pháp quốc tế và pháp luật các quốc gia khác quy định trên lĩnh vực này.
Nhằm góp phần phòng ngừa, đấu tranh hiệu quả với hoạt động lợi dụng tự do báo chí để chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam, trong thời gian tới, cần tập trung thực hiện một số nhiệm vụ trọng tâm sau:
Một là, tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước đối với công tác quản lý Nhà nước với báo chí, truyền thông và công tác phòng ngừa, đấu tranh với hoạt động lợi dụng tự do ngôn luận, tự do báo chí chống phá Việt Nam.
Giữ vững nguyên tắc Đảng lãnh đạo trực tiếp, toàn diện đối với cả hệ thống chính trị, trong đó có các cơ quan báo chí, truyền thông trong cả bốn khâu:
Định hướng phát triển; định hướng nội dung; công tác cán bộ; công tác kiểm tra, kiểm soát.
Đặc biệt, coi trọng công tác rà soát, đánh giá đội ngũ cán bộ quản lý báo chí; thực hiện nghiêm các quy định về bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật đối với cán bộ, lãnh đạo các cơ quan báo chí, truyền thông.
Hai là, phải làm tốt lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Ðể làm tròn nhiệm vụ vẻ vang của mình, cán bộ báo chí cần phải tu dưỡng đạo đức cách mạng”.
Do đó, mỗi nhà báo cần không ngừng học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, tự giác học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; không ngừng nâng cao bản lĩnh chính trị, lập trường tư tưởng, đạo đức cách mạng, thực hiện tốt Luật Báo chí và các quy định của pháp luật trên lĩnh vực báo chí; hoạt động đúng tôn chỉ, mục đích vì lợi ích của đất nước, của nhân dân; góp phần nâng cao uy tín, vị thế Việt Nam trên trường quốc tế.
Ba là, tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về báo chí, truyền thông, quản lý internet.
Tiếp tục tăng cường cơ chế phối hợp giữa Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Thông tin và Truyền thông và các cơ quan chức năng trong công tác chỉ đạo, quản lý trên lĩnh vực này.
Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện các quy định đạo đức nghề nghiệp và giáo dục các chủ thể trong hoạt động báo chí, truyền thông tự giác thực hiện; các chế tài xử lý vi phạm cần đủ mạnh để bảo đảm ngăn ngừa, răn đe.
Bốn là, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm trên lĩnh vực báo chí, truyền thông.
Qua đó, chủ động phát hiện những hành vi sai phạm, xu hướng lệch lạc ở các cơ quan báo chí và đội ngũ phóng viên, nhà báo để có các biện pháp ngăn chặn, xử lý kịp thời, nghiêm minh.
Đặc biệt, qua công tác thanh, kiểm tra, cần kịp thời phát hiện và kiên quyết đưa ra khỏi vị trí lãnh đạo, quản lý đối với những người không đủ bản lĩnh chính trị, năng lực chuyên môn, những người có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống.
Năm là, tiếp tục đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền chính sách, thành tựu bảo đảm quyền con người ở Việt Nam.
Kết hợp chặt chẽ giữa tuyên truyền đối nội và tuyên truyền đối ngoại; qua nhiều kênh và nhiều hình thức tuyên truyền đa dạng, phong phú làm cho cộng đồng quốc tế, người Việt Nam ở nước ngoài hiểu đúng quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước và thành tựu bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí ở Việt Nam, quảng bá hình ảnh đất nước và con người Việt Nam, góp phần đấu tranh hiệu quả các luận điệu vu cáo, xuyên tạc tình hình tự do ngôn luận, tự do báo chí ở Việt Nam.