Ở Việt Nam, từ đầu thập niên 2010 đã xuất hiện những quan điểm khác nhau về giáo dục mở.
Hiểu theo quan điểm hệ thống mở thì giáo dục mở là “hệ thống được thiết kế sao cho tổ chức và hoạt động của nó có khả năng thích ứng với những đổi thay và yêu cầu mới của môi trường kinh tế, xã hội”.
Qua nghiên cứu, 3 tác giả của Tiến sĩ Trịnh Quang Khải, giảng viên Nguyễn Thị Thu Hương và Thạc sĩ Nguyễn Phương Ngân (Đại học giao thông vận tải) đã chỉ ra các hình thức của giáo dục mở, nền tảng công nghệ cần có, nguyên tắc xuất bản và giấy phép tại tham luận “Tổng quan về giáo dục và học liệu mở”.
Thư viện Học liệu Mở Việt Nam vận hành trên nền tảng Hanoi Spring (Ảnh minh họa: Báo Vietnamnet) |
Cụ thể, các tác giả chỉ rõ, theo giáo trình khóa Thạc sĩ H817 về Tính mở và những cải tiến trong học tập (Openness and innovation inlearning) thuộc ngành Open Education của Đại học Mở (Vương quốc Anh), giáo dục mở có thể triển khai với những hình thức sau:
1) Giáo dục cho tất cả: Giáo dục miễn phí ở các cấp phổ thông, cao đẳng và đại học dành cho bất kỳ ai, hay chi phí rất thấp thường do Nhà nước tài trợ cho một số nhóm đối tượng riêng biệt, như sinh viên cử tuyển, sinh viên thuộc các nhóm đối tượng chính sách;
2) Học liệu mở: Các tư liệu được số hóa, được cấp phép và đăng lên Internet để sử dụng miễn phí với những quyền nhất định.
3) Truy cập mở tới các khóa học hay chương trình giáo dục có mã nguồn mở, ví dụ như MOOC. Kết thúc khóa học, học viên có thể có hoặc không được cấp chứng chỉ;
4) Sách giáo khoa mở: được đăng trực tuyến để người học tự do truy cập;
5) Nghiên cứu mở: Các công trình, tài liệu nghiên cứu được đăng trực tuyến, để những ai quan tâm thìcó thể tự do tải về;
6) Dữ liệu mở: Bất kỳ ai cũng có thể truy cập để sử dụng hay tái sử dụng, chia sẻ với điều kiện có ghi công cho tác giả.
Nền tảng công nghệ cần có
Các hợp phần công nghệ cấu thành nên hệ thống giáo dục mở bao gồm:
1) Blog: Người học cần thiết phải lập blog và thường xuyên trao đổi ý kiến, quan điểm, phản hồi về các nội dung đã học sau mỗi bài (hàng tuần).
2) Các đường liên kết/ siêu liên kết và mã nhúng: Đây là phương phức mà các giảng viên đăng bài, và cũng là cách để người học thuyết trình về một vấn đề. Nhiều giảng viên còn khai thác các công cụ của web 2.0.
3) Mạng xã hội: Phổ biến nhất là Facebook và Twitter, là kênh thông tin giữa các học viên để nhận, phân phối các HLM cũng như thảo luận bài học.
4) Môi trường học ảo: Như Moodle và Blackboard mã nguồn mở, cung cấp sàn cho các cuộc thảo luận không đồng thời và là nơi đăng tải nội dung.
Ngoài ra, có thể kể đến các trang thiết bị kỹ thuật số như Bảng tương tác, máy tính cá nhân, hoặc các phần mềm ứng dụng hỗ trợ cho đào tạo trực tuyến như PROVIEW E-learning 3.0 TM hay CLEVER.
Nguyên tắc xuất bản
Cũng theo nghiên cứu của các tác giả này cho thấy, hệ thống học liệu mở ở một số nước trên thế giới tuân theo nguyên tắc xuất bản như sau:
Theo David Willey (2014), việc xuất bản/ đăng học liệu mở phải tuân theo 5 nguyên tắc (quyền) cơ bản (còn gọi là 5R). Đó là:
1. Reuse - Sử dụng lại: Mọi người được phép sử dụng lại một phần hay toàn bộ tác phẩm, phục vụ cho mục đích riêng của họ (Ví dụ: tải video về học liệu để xem)
2. Redistribution – Phân phối lại: Mọi người có thể chia sẻ tư liệu với người khác (Ví dụ: gửi chuyển tiếp một bài báo điện tử cho người khác)
3. Revise – Làm lại: Mọi người có thể sửa đổi hay dịch tác phẩm (Ví dụ: dịch tài liệu sang tiếng Việt)
4. Remix – Trộn: Mọi người có thể phối hợp hai hay nhiều tư liệu khác nhau để tạo ra một tài nguyên/ tác phẩm phát sinh mới (Ví dụ: lấy tư liệu giọng nói của tác phẩm này kết hợp với slide của văn bàn khác để hình thành một tài liệu mới)
5. Retain – Giữ lại: Vì không có luật Quản lý quyền số (DRM) nên mọi người có thể lưu giữ nội dung tư liệu bao lâu tùy thích.
Người cung cấp/ tác giả có thể cho phép sử dụng cả 5 quyền hoặc ít hơn. Cũng theo Willey (2014), số lượng quyền được cấp phép chính là thể hiện tính ‘mở’nhiều hay ít của một nguồn tài liệu nào đó.
Giấy phép
Như đã nêu ở trên, học liệu mở trước khi đăng/ xuất bản phải được cấp phép.
Hiện nay, có hai loại hệ thống cấp phép phổ biến là Creative Commons (CC) và GNU - Free Document Lisence (GFDL), với GFDL thường sử dụng cho các tài liệu đi kèm các phần mềm máy tính còn CC thì dành chung cho tất cả các loại tài liệu (tệp văn bản, âm thanh, hình ảnh, nghe nhìn), và là loại giấy phép tư liệu tự do – mở được sử dụng rộng rãi nhất.
Thời gian chính thức tổ chức hội thảo về hệ thống giáo dục mở |
Chẳng hạn, trang YouTube cho phép bạn đánh dấu video mà bạn muốn đăng lên YouTube bằng giấy phép CC BY, sau khi bạn đã tham khảo Điều khoản dịch vụ của họ.
Sau đó, bạn vẫn giữ bản quyền với video của mình, nhưng toàn bộ cộng đồng YouTube được phép tái sử dụng hay chỉnh sửa video đó theo các điều khoản của giấy phép.
Các hệ thống cấp phép này khi được xây dựng đều phải tuân thủ khung pháp lý về sở hữu trí tuệ và có giá trị trên toàn cầu.
Chúng đưa ra cách thức tiếp cận thuận tiện cho cả tác giả/ người đăng tư liệu và người sử dụng, thông qua Internet.
Các học liệu mở khác nhau thì có mức độ tự do khác nhau do tác giả quy định, do vậy sẽ được cấp phép CC khác nhau.
Chẳng hạn:
Tác giả, khi đăng tác phẩm của mình, được quyền giữ lại một số quyền mà mình muốn, và chỉ trao cho người sử dụng một số quyền nhất định khi truy cập vào tác phẩm này.
Người sử dụng khi nhìn thấy tác phẩm nào ở dạng tệp số có gắn biểu tượng giấy phép CC thì sẽ lần theo đường link dẫn về trang web của giấy phép CC được tác giả gắn cho tác phẩm để biết giới hạn quyền sử dụng tác phẩm đến đâu, và không cần phải xin phép tác giả nữa. Hiện nay, CC đã triển khai cấp phép cho nhiều nước, trong đó có Việt Nam.
Trong khi đó, theo Yan Geffrotin (2007), các giấy phép CC khi cấp phải đảm bảo ba thuộc tính[12]:
- Bất cứ ai khi sử dụng học liệu mở này phải dẫn nguồn tài liệu là tác giả đích thực. Tuyệt đối không coi đó là sản phẩm của mình, dù đã qua chỉnh sửa,
- Tất cả mọi người đều được tự do sử dụng học liệu mở này với điều kiện không phục vụ cho mục đích kinh doanh, ví dụ: chỉnh sửa học liệu mở để bán lại;'
- Những ai sử dụng học liệu mở và chỉnh sửa nó đều phải chia sẻ bản đã sửa với người khác, nếu các học liệu mở ấy được cấp cùng loại giấy phép.
Công nghệ
Để xây dựng các học liệu mở chất lượng, có giá trị sử dụng lâu dài, cần thiết phải có nền tảng công nghệ bao gồm ba thành phần cơ bản:
- Các phần mềm mã nguồn mở, để sử dụng, tái sử dụng, phân phối nội dung học tập, tìm kiếm và tổ chức nội dung, hệ thống quản trị học tập, công cụ phát triển nội dung, các cộng đồng học tập trực tuyến;
- Các tài liệu, sách, tạp chíđược công bố phục vụ việc học tập và tham khảo;
- Các tài nguyên phục vụ việc triển khai gồm các loại giấy phép về quyền sở hữu trí tuệ để thúc đẩy việc xuất bản tài liệu mở, những nguyên tắc để triển khai và bản địa hóa nội dung và các tiêu chí chuẩn đển đảm bảo sự tương thích giữa các hệ thống học liệu mở khác nhau.
Thành phần cơ bản của học liệu mở cụ thể như sau:
- Lưu trữ OER (OER Respositories)
- Nội dung học tập (Learning content)
- Xuất bản OER (OER Publishers)
- Hệ tống giấy phép, các nguyên tắc triển khai
- Cộng đồng sử dụng OER
- Các công cụ để phát triển, quản rị OER
Được biết, các nước phát triển và các trường đại học tiên tiến trên thế giới đi tiên phong trong xu thế giáo dục mở và đã tạo ra rất nhiều nguồn học liệu chất lượng, quý giá.
Đây là những hình mẫu tham khảo giúp Bộ Giáo dục và đào tạo cùng các cơ sở giáo dục ở Việt Nam xây dựng và phát triển hệ thống của chính mình.