Từ Nà Khoa, thầy giáo Thuận đưa chúng tôi đến xã Na Cô Sa ( Nậm Pồ, Điện Biên), chưa đầy 20km nhưng chúng tôi phải di chuyển trên con đường trgải đá cấp phối, đường đất đỏ gập ghềnh.
Con đường bám trên những triền đồi hoang vu, đâu đó mới có bóng nhà dân.
Thầy Thuận bảo, do tập tính của người dân tộc Mông ở khu vực này các làng, các bản đều ẩn sâu trong núi.
Quả thật, cả quãng đường từ Nà Khoa đến với Na Cô Sa chúng tôi hầu như gặp rất ít nhà dân. Tất cả chỉ là những cánh rừng tạp, xen lẫn là những nương lúa tẻ Mèo của người dân vùng biên.
Con đường đất đỏ như một vết gạch dài đằng đẵng, ngoằn ngoèo bám trên những triền đồi tưởng như không có điểm cuối cùng.
Na Cô Sa nơi chúng tôi sắp dừng chân là một xã biên giới với hơn 17km đường biên giáp Lào, trải rộng trên diện tích tự nhiên hơn 12.000ha, dân cư trên địa bàn 98% là người Mông, trình độ dân trí còn thấp.
Điểm trường Huổi Thủng 2 nơi chỉ có 1 mình cô giáo Lò Thị Vuông công tác dạy học. |
Trước đây đã từng có thời kỳ Na Cô Sa có cả trăm người nghiện ma túy. Nếu Nậm Pồ là một trong những huyện nghèo nhất của Điện Biên thì Na Cô Sa cũng là xã nghèo nhất của huyện Nậm Pồ.
Sau hơn 1 giờ leo đồi bằng xe máy của thầy giáo Thuận, chúng tôi gặp thầy giáo Nguyễn Văn Quân, Hiệu trưởng Phổ thông bán trú Tiểu học Na Cô Sa.
Dù nhiều việc tất bật những ngày đầu năm học, tạm biệt thầy giáo Thuận, nhanh chóng đưa chúng tôi tới điểm Huổi Thủng 2, nơi có cô giáo Lò Thị Vuông công tác.
Điểm trường Huổi Thủng 2 không nằm trên những triền cao chót vót hay lọt thỏm trong thung lũng mà nằm ngay bên trườn dốc, ven đường liên huyện.
Khác với những điểm trường vùng cao khác, tuy không có địa hình phức tạp nhưng Huổi Thủng 2 lại rất phức tạp về đời sống xã hội, tôn giáo.
Thầy giáo Quân cho biết, nhiều năm nay, nhà trường đã cùng với chính quyền địa phương rất vất vả mới có thể đưa được các em học sinh trong độ tuổi ra lớp.
Đó không chỉ là sự vận động của các thầy cô giáo mà cả một hệ thống chính trị địa phương.
Thầy giáo người Mông chọn nghề dạy chữ để dân tộc mình thay đổi tốt hơn |
Nhờ công tác xã hội hóa và kêu gọi từ các cấp các ngành địa phương của huyện Nậm Pồ và sự vận động của Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Nậm Pồ, sự góp sức của tập thể giáo viên nhà trường, điểm trường Huổi Thủng 2 có một cơ sở vật chất khá tươm tất, khang trang.
Khi chúng tôi đến, lớp học của một cô giáo có ngoại hình khá nhỏ bé vẫn đang mải tập những nét chữ đầu đời.
Thấy chúng tôi, cô giáo hơi ngượng ngùng lũ trẻ cũng bắt đầu chú ý đến sự xuất hiện của người lạ.
Hoàn thành nốt bài học, chúng tôi mới có dịp ngồi trò chuyện với cô giáo.
Cô giáo Lò Thị Vuông, người dân tộc Thái ở huyện Tuần Giáo (Điện Biên), mới chỉ 26 tuổi nhưng cô Vuông đã có “thâm niên” ở đất Na Cô Sa này đến 4 năm.
Sau ngày ra trường, được sự động viên của chồng, cô Vuông rời xa gia đình, con nhỏ lên với những lớp học nơi vùng biên cương Na Cô Sa.
Cô giáo Lò Thị Vuông uốn nắn từng nét chữ cho từng em nhỏ người dân tộc thiểu số. (Ảnh: LC) |
Là người trẻ, đầy nhiệt huyết, ngay từ ngày mới đến, cô giáo Vuông đã sẵn sàng đi điểm Na Cô Sa 3, một điểm trường lúc đó chỉ là những căn nhà tạm bợ.
Nhưng vượt lên những khó khăn, cô Vuông đã hoàn thành tốt công tác dạy học tại điểm trường này.
Đến nay, điểm trường đã có cơ sở vật chất tốt hơn, cô Vuông đi đến Huổi Thủng 2, một điểm trường có nhiều khó khăn khác.
Dù mới công tác chưa lâu nhưng cô giáo Lò Thị Vuông là một trong những giáo viên tiêu biểu của trường Phổ thông bán trú Tiểu học Na Cô Sa khi là lao động tiên tiến 3 nam liên tục, 2 năm là giáo viên dạy giỏi cấp huyện và liên tục là giáo viên dạy giỏi cấp trường.
Hiện cô Vuông cũng là tổ phó tổ chuyên môn khối 1.
Buổi học ngày thường tại lớp học của cô giáo Lò Thị Vuông. (Ảnh: LC) |
Chuyên môn vững là thế, tâm huyết là thế những cô giáo Vuông cũng có những góc khuất của riêng mình.
Trong lúc tâm sự với chúng tôi, mắt cô giáo Vuông rưng lệ khi nghĩ về con nhỏ.
Xa con từ khi còn ẵm ngửa, đằng đẵng những ngay xa con, dù nhớ, dù thương nhưng cô Vuông vẫn phản nén lòng mình hoàn thành nhiệm vụ.
Có lẽ cô Vuông cũng như bao cô giáo vùng cao trên những điểm trường khắp miền Tây Bắc này đều đau đáu nỗi buồn khi những tiếng nói đầu đời của con mình không được dạy.
Và tiếng gọi đầu của con là chữ bà, chữ ông chứ không phải chữ bố, chữ mẹ.
Buổi khai giảng đặc biệt tại ngôi trường miền biên viễn |
Khác với các cô giáo vùng cao khác, đa phần các cô đều là những “tay lái lụa” trên vùng biên cương đi khắp bản, cô giáo Vuông người quá nhỏ nên… đi bộ nhiều hơn là đi xe máy.
“Học sinh của em cũng đi xa hơn em nhiều, em đi bộ thế cũng chưa là gì”, cô Vuông cười, chia sẻ với chúng tôi.
Có những học sinh ở tít những điểm đồi xa, cách trường 2 – 3 quả núi nhưng cô Vuông vẫn đến thăm các em mỗi khi các em ốm hoặc đến mùa vận động trường, đường xa không làm đôi chân của cô giáo có thân hình nhỏ bé mệt mỏi.
Chừng ấy năm công tác trong vùng khó, vượt qua nỗi nhớ nhà, nhớ chồng, nhớ con, cô Vuông bảo cô chưa từng bao giờ có ý nghĩ xa rời nghề giáo. Bởi cô đã chọn và yêu nó từ lúc nào không hay.
Đường đến điểm trường Huổi Thủng 2 của cô giáo Lò Thị Vuông |
“Em ở đây cũng không vất vả lắm khi anh chị em trong trường gắn bó với nhau, coi nhau như anh em ruột thịt trong nhà nên nhiều lúc cũng vơi nỗi nhớ nhà.
Bây giờ có công nghệ thông tin nữa, nên việc liên lạc về với con cái đỡ vất vả hơn nhiều. Dù nhớ nhưng hình ảnh của con mình vẫn theo dõi được nên cũng đỡ phần nào anh ạ”, cô Vuông tâm sự.
Nói về cô giáo Vuông, thầy giáo Phạm Văn Quân Hiệu trưởng trường Phổ thông bán trú Tiểu học Na Cô Sa cho biết: “Cô giáo Vuông là một cô giáo có nghị lực lớn. Tuy người nhỏ vậy thôi nhưng tâm huyết lớn lắm đấy.”
Và ở Na Cô Sa còn rất nhiều thầy cô giáo có quyết tâm và nghị lực lớn như cô giáo Lò Thị Vuông.