Thông tư này thay thế Thông tư số 15/2014/TT-BGDĐT.
Về tổng thể, Quy chế thực hiện đúng tinh thần nâng cao quyền tự chủ và trách nhiệm giải trình của các cơ sở giáo dục đại học theo Luật Giáo dục đại học (đã sửa đổi, bổ sung năm 2018, sau đây gọi là Luật giáo dục đại học). Quy chế hướng đến sự bình đẳng, công bằng và chuẩn mực chung trong hệ thống; giao cơ sở đào tạo quy định cụ thể hơn với các yêu cầu bằng hoặc cao hơn Quy chế này.
Song song với quyền tự chủ, cơ sở đào tạo phải thực hiện trách nhiệm giải trình, thường xuyên cập nhật thông tin vào hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia và công khai minh bạch để xã hội cùng các bên liên quan giám sát quá trình tổ chức thực hiện.
Theo đó, trước khi tổ chức tuyển sinh và đào tạo, Cơ sở đào tạo phải công khai Quy chế của trường cùng các quy định liên quan đến tuyển sinh, tổ chức đào tạo và cấp bằng thạc sĩ, quyết định mở ngành đào tạo, các điều kiện bảo đảm chất lượng và thông tin khác theo quy định hiện hành.
Ảnh minh họa: Kim Chi |
Trên trang thông tin điện tử của mình, cơ sở đào tạo phải cập nhật công khai các thông tin: Số lượng học viên trúng tuyển, đang học, thôi học và tốt nghiệp theo từng khóa, từng ngành, chương trình đào tạo và hình thức đào tạo; kế hoạch giảng dạy, thời khóa biểu của từng lớp học; tên đề tài và tóm tắt nội dung các luận văn, đề án có thông tin học viên, người hướng dẫn và ngày bảo vệ luận văn, đề án (trừ đề tài thuộc lĩnh vực bảo mật thực hiện theo quy định của Nhà nước).
Trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Quy chế này, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã cùng các cơ sở đào tạo rà soát kỹ, tiếp thu và giải trình các ý kiến góp ý nhằm đảm bảo công tác triển khai thuận lợi và phù hợp thực tiễn.
Quy chế liên kết chặt chẽ với các thông tư liên quan do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành trong năm 2021 và liên thông giữa các trình độ của giáo dục đại học như: Thông tư quy định chuẩn chương trình đào tạo, Quy chế đào tạo trình độ đại học và Quy chế tuyển sinh và đào tạo trình độ tiến sĩ.
Về tuyển sinh
Quy chế quy định khung, ngắn gọn; ứng viên dự tuyển phải bảo đảm yêu cầu đầu vào quy định tại Thông tư quy định chuẩn chương trình đào tạo.
Thực hiện Luật giáo dục đại học (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2018), Quy chế bổ sung phương thức tuyển sinh và giao quyền tự chủ cho cơ sở đào tạo quy định cụ thể các phương thức dựa trên nguyên tắc bảo đảm đánh giá công bằng, khách quan và trung thực về kiến thức, năng lực của người dự tuyển. Cơ sở đào tạo quyết định tuyển sinh theo 03 phương thức: thi tuyển, xét tuyển và kết hợp thi tuyển và xét tuyển.
Quy chế cho phép thi tuyển theo hình thức trực tuyến khi đáp ứng điều kiện bảo đảm chất lượng để kết quả đánh giá tin cậy, công bằng như đối với tuyển sinh trực tiếp. Hình thức này giúp tuyển sinh không bị gián đoạn do ảnh hưởng bởi dịch bệnh và các vấn đề bất khả kháng khác.
Điểm mới của Quy chế là quy định về công nhận kết quả học tập và chuyển đổi tín chỉ nhằm liên thông giữa các trình độ giáo dục đại học, trao đổi học thuật trong nước và với nước ngoài; tạo điều kiện cho cơ sở đào tạo xây dựng chương trình đào tạo ở các trình độ giáo dục đại học liên thông với trình độ thạc sĩ; tổ chức thực hiện công nhận và chuyển đổi tín chỉ bảo đảm tiêu chuẩn và quy định của pháp luật.
Quy chế của cơ sở đào tạo phải quy định chi tiết điều kiện, tiêu chí đánh giá, quy trình cụ thể cho việc công nhận và chuyển đổi tín chỉ. Quy định này được đánh giá phù hợp, linh hoạt và tiết kiệm thời gian cho sinh viên có thành tích học tập vượt trội.
Về nguyên tắc trao đổi học viên, số lượng tín chỉ học viên theo học ở cơ sở đào tạo phối hợp được công nhận không quá 25% tổng số tín chỉ của chương trình đào tạo học viên đang theo học nhằm bảo đảm chất lượng đào tạo.
Để đảm bảo trách nhiệm giải trình và ứng viên dự định học lên trình độ thạc sĩ có sự chuẩn bị, cơ sở đào tạo phải công khai danh mục ngành phù hợp đối với người học đã tốt nghiệp trình độ đại học (hoặc trình độ tương đương trở lên) cho từng chương trình đào tạo.
Về địa điểm, thời gian, khối lượng học tập, hình thức đào tạo
Về địa điểm đào tạo, thực hiện theo Điều 37 Luật giáo dục đại học, Quy chế chỉ cho phép đào tạo thạc sĩ tại trụ sở chính hoặc phân hiệu của cơ sở đào tạo. Các hoạt động thực hành, thực tập, nghiên cứu và trải nghiệm thực tế được tổ chức ngoài cơ sở đào tạo không quá 20% khối lượng chương trình đào tạo (ngoại trừ các ngành thuộc lĩnh vực sức khỏe đào tạo tại các cơ sở y tế theo quy định tại Nghị định số 111/2017/NĐ-CP của Chính phủ và của chương trình đào tạo cụ thể).
Về hình thức đào tạo, Quy chế bổ sung hình thức vừa làm vừa học cho chương trình định hướng ứng dụng. Thời gian đào tạo toàn khóa học đối với hình thức đào tạo vừa học vừa làm phải dài hơn ít nhất 20% so với hình thức đào tạo chính quy của cùng chương trình đào tạo.
Quản lý chặt quá trình tổ chức đào tạo, Quy chế yêu cầu cơ sở đào tạ xây dựng và công khai kế hoạch giảng dạy và học tập; các học phần trong chương trình đào tạo được bố trí đều trong các tuần của học kỳ. Trong trường hợp cần thiết phải xếp lịch học tập trung thời gian, số giờ giảng đối với mỗi học phần không được vượt quá 15 giờ trong một tuần và 04 giờ trong một ngày.
Cơ sở đào tạo hướng dẫn học viên đăng ký học tập trước khi bắt đầu mỗi học kỳ; quy định khối lượng tín chỉ tối đa và tối thiểu trong mỗi học kỳ mà học viên được phép đăng ký. Để tránh trường hợp học dồn bất hợp lý, Quy chế quy định chặt chẽ: tổng số tín chỉ đăng ký tối đa trong một năm học không quá 45 tín chỉ với hình thức chính quy và không quá 30 tín chỉ với hình thức vừa làm vừa học.
Về phương thức đào tạo trực tuyến: Quy chế cho phép đào tạo trực tuyến không quá 30% khối lượng tín chỉ của chương trình đào tạo. Quy định này xuyên suốt và nhất quán với quy chế đào tạo trình độ đại học và tiến sĩ đã ban hành.
Nhất quán với quy chế đào tạo trình độ đại học, Quy chế này cho phép đánh giá trực tuyến với điều kiện bảo đảm sự tin cậy, công bằng và khách quan như đánh giá trực tiếp, đóng góp không quá 50% trọng số điểm học phần.
Trường hợp thiên tai, dịch bệnh và bất khả kháng khác, công tác đào tạo và đánh giá trực tuyến các học phần thực hiện theo hướng dẫn của Bộ Giáo dục và đào tạo.
Về luận văn, học phần tốt nghiệp và điều kiện tốt nghiệp
Quy chế quy định học viên chương trình định hướng nghiên cứu phải hoàn thành luận văn; học viên chương trình định hướng ứng dụng phải hoàn thành học phần tốt nghiệp được thể hiện bởi một đề án, hoặc đồ án, hoặc dự án (gọi chung là đề án).
Người hướng dẫn phải có trình độ tiến sĩ trở lên, chuyên môn phù hợp với ngành đào tạo và đề tài luận văn của học viên. Một trong hai người hướng dẫn phải là giảng viên cơ hữu của cơ sở đào tạo. Tại một thời điểm, một người hướng dẫn tối đa 05 học viên.
Những quy định trên đảm bảo tính đồng bộ với quy định về chuẩn chương trình đào tạo đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành.
Đối với luận văn, đề án, cơ sở đào tạo quy định, hướng dẫn về nội dung chuyên môn, cấu trúc, hình thức và bảo đảm liêm chính học thuật. Trong đó, phải tăng cường liêm chính học thuật; giám sát và kiểm soát việc chống sao chép; xây dựng chế tài, nghiêm túc xử lý khi có vi phạm; bảo đảm tính trung thực của nội dung luận văn, đề án và chuyên đề nghiên cứu khác.
Nhằm nâng cao chất lượng, cũng như để xã hội và các bên liên quan cùng giám sát, Quy chế yêu cầu, sau khi bảo vệ thành công, toàn văn luận văn, báo cáo đề án (đã được chỉnh sửa, bổ sung theo yêu cầu của hội đồng nếu có) phải được lưu trữ tại thư viện của cơ sở đào tạo và công bố trên trang thông tin điện tử của cơ sở đào tạo trong ít nhất 30 ngày.
Chuẩn đầu ra ngoại ngữ ở trình độ thạc sĩ thực hiện theo Khung trình độ quốc gia Việt Nam. Học viên phải đạt trình độ ngoại ngữ Bậc 4 theo Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam, thể hiện bằng các minh chứng như văn bằng, chứng chỉ ngoại ngữ. Quy định này nhằm khắc phục một số bất cập trong thực tế, như một số cơ sở đào tạo tự đánh giá chưa nghiêm túc; chưa đảm bảo yêu cầu về đề thi, tiêu chuẩn cho giám khảo và quy trình tổ chức thi; từ đó có thể tổ chức đánh giá đúng về chuẩn đầu ra năng lực ngoại ngữ của học viên.