Ở giai đoạn 2016-2020, công tác về bình đẳng giới và sự tiến bộ phụ nữ ngành Giáo dục đã đạt được một số kết quả đáng ghi nhận. Vừa qua, Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành kế hoạch hành động vì sự tiến bộ phụ nữ và bình đẳng giới giai đoạn 2021-2030 với mục tiêu tiếp tục thu hẹp khoảng cách giới, tạo điều kiện để phụ nữ, nam giới tham gia, thụ hưởng bình đẳng trong lĩnh vực giáo dục, đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.
Nhân dịp Ngày Quốc tế Phụ nữ (8/3), phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam có cuộc trao đổi với Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Ngô Thị Minh để hiểu hơn về vai trò của bình đẳng giới trong môi trường giáo dục.
Phóng viên: Chủ trương của Đảng, Chính phủ về công tác phụ nữ và bình đẳng giới được thể hiện trong nhiều văn bản chỉ đạo nhằm tạo điều kiện để phụ nữ phát triển và thúc đẩy bình đẳng giới. Thứ trưởng đánh giá như thế nào về vai trò bình đẳng giới trong ngành Giáo dục hiện nay?
Thứ trưởng Ngô Thị Minh: Trong thời gian qua, chủ trương của Đảng về công tác phụ nữ và bình đẳng giới được thể hiện trong các nghị quyết, chỉ thị của Đảng; Luật của Quốc hội; quyết định, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ ban hành chiến lược quốc gia về bình đẳng giới, tăng cường hoạt động vì sự tiến bộ của phụ nữ nhằm tạo điều kiện để phụ nữ phát triển và thúc đẩy bình đẳng giới.
Ngành Giáo dục cũng đã ban hành các văn bản liên quan đến quy định về quyền được học tập, được nâng cao trình độ; loại hình, phương thức đào tạo đều không phân biệt nam, nữ và được quy định ổn định, thống nhất ở các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực giáo dục.
Điều này đã được thể hiện trong Hiến pháp năm 2013 và khẳng định công dân nam, nữ bình đẳng về mọi mặt. Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới, nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới. Luật Giáo dục quy định mọi công dân, không phân biệt nam, nữ, đều bình đẳng về cơ hội học tập; quy định về độ tuổi đi học cho các cấp học từ giáo dục mầm non đến giáo dục phổ thông bình đẳng cho cả nam và nữ. Nam và nữ được hỗ trợ tạo mọi điều kiện để hoàn thành giáo dục phổ cập cũng như lựa chọn ngành nghề học tập và đào tạo.
Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Ngô Thị Minh. |
Chỉ thị nhiệm vụ trọng tâm theo từng năm học của Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã chỉ đạo các địa phương tạo điều kiện tăng tỷ lệ nhập học mầm non, tiểu học cho trẻ em gái, đặc biệt là trẻ em gái ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo và vùng có điều kiện kinh tế khó khăn. Thực hiện lồng ghép giới và vấn đề giới trong đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông.
Cùng với việc thực hiện Luật Bình đẳng giới, nhiều chủ trương, chính sách về giáo dục và đào tạo được Bộ Giáo dục và Đào tạo lồng ghép giới, bảo đảm bình đẳng giới đã tạo hành lang pháp lý cho các cơ quan, đơn vị, trường học, cơ sở giáo dục triển khai các giải pháp để tăng cường vai trò và sự tham gia của cả nam và nữ trong quá trình đổi mới giáo dục và đào tạo.
Công tác chỉ đạo, triển khai bình đẳng giới được thực hiện đồng bộ, thống nhất, gắn với nhiệm vụ từng năm học, trong đó đã tạo điều kiện và có cơ chế chính sách phù hợp, kịp thời nhằm thu hẹp khoảng cách giữa trẻ em trai và gái trong tiếp cận giáo dục, tăng tỷ lệ biết chữ của trẻ em gái và phụ nữ dân tộc thiểu số ở những vùng khó khăn.
Công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về giới và bình đẳng giới có chuyển biến tích cực trong các cơ quan, đơn vị, trường học, cơ sở giáo dục; đã có sự phối hợp đồng bộ giữa ba môi trường giáo dục: nhà trường, gia đình và xã hội. Công tác vận động nữ của ngành Giáo dục đã có nhiều chuyển biến rõ rệt; vai trò, vị trí của nữ nhà giáo và cán bộ quản lý ngày càng được coi trọng, đề cao; trình độ chuyên môn, trình độ quản lý, lý luận chính trị của nữ nhà giáo và cán bộ quản lý được cải thiện.
Đến nay, 90% Phòng Giáo dục và Đào tạo có nữ tham gia Ban lãnh đạo; 90% cơ sở giáo dục đại học có nữ tham gia Hội đồng trường/Ban Giám hiệu/Ban Giám đốc; 40% nữ tiến sĩ trên tổng số tiến sĩ đang công tác trong các cơ sở giáo dục và đào tạo;
Giảm tỷ lệ trẻ em trong độ tuổi phổ cập giáo dục không đến trường, chú trọng đối tượng trẻ em trai ở khu vực Tây Nguyên và trẻ em gái ở vùng miền núi phía Bắc; tỷ lệ biết chữ của nam và nữ trong độ tuổi từ 15-60 đạt 98,16%, độ tuổi 15-35 là 99,3%; đối với các tỉnh thuộc khu vực Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ tỷ lệ này tương ứng là 94,7% và 97,8%, đạt và vượt chỉ tiêu…. Đây là những cố gắng, nỗ lực của toàn ngành Giáo dục trong thời gian qua.
Tuy nhiên, ở một số cơ quan, đơn vị sự quan tâm của cấp ủy, chính quyền các cấp trong ngành Giáo dục, nhất là người đứng đầu còn chưa thực chất, chưa sát sao và chưa quan tâm đúng mức cho công tác bình đẳng giới tại cơ quan, đơn vị.
Trình độ chuyên môn, lý luận chính trị của nữ cán bộ, giáo viên không đồng đều. Tỷ lệ nữ cán bộ quản lý ở cấp trung học phổ thông, đại học còn thấp và chưa tương xứng tiềm năng, sự đóng góp của đội ngũ cán bộ nữ trong ngành (nhất là cán bộ nữ ở các cơ quan quản lý, chỉ đạo). Công tác chăm lo bồi dưỡng, đào tạo cán bộ nữ ở một số đơn vị chưa được quan tâm đúng mức, chưa chú trọng tỷ lệ nữ trong quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và bổ nhiệm cán bộ, nhất là các chức danh có thẩm quyền ra quyết định.
Nhìn nhận thực tế từ chương trình, sách giáo khoa đến chính sách, chế độ… ở góc độ bình đẳng giới, Thứ trưởng thấy có sự thay đổi như thế nào?
Thứ trưởng Ngô Thị Minh: Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp với các cơ quan, phương tiện truyền thông nhằm phổ biến rộng rãi các thông tin và kiến thức về bình đẳng giới; xóa bỏ định kiến giới trong chương trình, sách giáo khoa, giúp nâng cao nhận thức của ngành Giáo dục nói riêng và của toàn xã hội chung về vấn đề giới trong sách giáo khoa; xây dựng, phổ biến và tổ chức tập huấn sử dụng tài liệu hướng dẫn về lồng ghép giới trong chương trình, sách giáo khoa kèm theo các mẫu chỉnh sửa liên quan đến giới trong sách giáo khoa (bao gồm nội dung, hình ảnh, ngôn ngữ…) tới các ban biên soạn, thẩm định chương trình và sách giáo khoa giáo dục phổ thông.
Trong chương trình giáo dục phổ thông tổng thể và Chương trình giáo dục phổ thông các môn học ban hành kèm theo Thông tư số 32/2018/TT-BGDĐT ngày 26/12/2018 đã thể hiện rõ quan điểm: “Việc xây dựng chương trình giáo dục phổ thông được thực hiện theo quy định của Luật Giáo dục và pháp luật liên quan (trong đó có Luật Bình đẳng giới); tạo cơ hội bình đẳng về quyền được bảo vệ, chăm sóc, học tập và phát triển, quyền được lắng nghe, tôn trọng và được tham gia của học sinh”.
Thông tư số 33/2018/TT-BGDĐT ngày 22/12/2017 của Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành quy định về tiêu chuẩn, quy trình biên soạn, chỉnh sửa sách giáo khoa; tổ chức và hoạt động của Hội đồng quốc gia thẩm định sách giáo khoa, tại khoản 2, Điều 4: “Nội dung và hình thức sách giáo khoa không mang định kiến về sắc tộc, tôn giáo, nghề nghiệp, giới, lứa tuổi và địa vị xã hội”.
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã xây dựng và ban hành tài liệu hướng dẫn “Lồng ghép giới vào chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông”, có danh mục bảng kiểm cũng như các ví dụ gợi ý điều chỉnh sách giáo khoa. Tài liệu này đã được in ấn và phát hành tới một số các nhà biên soạn, thẩm định chương trình sách giáo khoa.
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã triển khai việc phổ biến và tổ chức tập huấn sử dụng tài liệu hướng dẫn về lồng ghép giới trong chương trình, sách giáo khoa kèm theo các mẫu chỉnh sửa liên quan đến giới trong sách giáo khoa (bao gồm cả nội dung, hình ảnh, ngôn ngữ…) tới ban biên soạn của các nhà xuất bản có tham gia biên soạn sách giáo khoa giáo dục phổ thông năm 2018.
Những năm qua, Bộ Giáo dục và Đào tạo khuyến khích việc tổ chức các hoạt động tuyên truyền thông tin, hướng dẫn các nhà xuất bản trong việc biên soạn sách giáo khoa, cũng như phổ biến thông tin phù hợp tới cha mẹ, giáo viên và học sinh về việc lựa chọn sách giáo khoa có nội dung bảo đảm có sự lồng ghép giới; xây dựng đề án, dự án về phương pháp giảng dạy giới, bình đẳng giới trong các cơ sở đào tạo giáo viên.
Xây dựng tài liệu hướng dẫn, tài liệu tham khảo, chỉ dẫn nguồn, phổ biến, tập huấn cho giáo viên phương pháp tích hợp giảng dạy về giới tính, giới, sức khỏe sinh sản, tình dục và bình đẳng giới vào các môn Tự nhiên, Xã hội, Sinh học, Giáo dục công dân. Phối hợp với Bộ Y tế thực hiện chương trình thử nghiệm về giáo dục giới tính học đường tại trường học. Tăng cường truyền thông giáo dục giới tính và cung cấp thông tin truyền thông về sức khỏe tình dục và kế hoạch hóa gia đình cho học sinh, sinh viên.
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành một số văn bản có đề cập tới ưu tiên đối với cán bộ, công chức, viên chức là nữ như: giảm định mức tiết dạy đối với giáo viên nữ có con nhỏ từ 12 tháng trở xuống (Thông tư số 15/2017/TT-BGDĐT sửa đổi, bổ sung Thông tư số 28/2009/TT-BGDĐT về chế độ làm việc đối với giáo viên phổ thông), cụ thể:
Giáo viên nữ có con nhỏ từ 12 tháng trở xuống, mỗi tuần lễ được giảm 3 tiết (đối với giáo viên trung học phổ thông, trung học cơ sở) và 4 tiết (đối với giáo viên tiểu học);
Giáo viên nữ trường dự bị đại học có con nhỏ từ 12 tháng trở xuống, mỗi tuần được giảm 3 tiết; miễn giảm định mức giờ chuẩn giảng dạy đối với giảng viên nữ trong thời gian nghỉ hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội (Thông tư số 20/2020/TT-BGDĐT về chế độ làm việc đối với giảng viên cơ sở giáo dục đại học);
Giảm định mức giờ dạy đối với giáo viên, giảng viên làm công tác công đoàn không chuyên trách (Thông tư số 08/2016/TT-BGDĐT quy định chế độ giảm định mức giờ dạy cho giáo viên, giảng viên làm công tác công đoàn không chuyên trách trong các cơ sở giáo dục công lập thuộc hệ thống giáo dục quốc dân.
Bình đẳng giới trong ngành Giáo dục tuy đạt kết quả khả quan nhưng đâu đó vẫn có điểm mờ do nhận thức người đứng đầu và ngay cả nữ giới? Để thực hiện thành công đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo theo tinh thần Nghị quyết số 29, theo Thứ trưởng chúng ta nên làm gì?
Thứ trưởng Ngô Thị Minh: Đảng, Nhà nước và toàn xã hội đặc biệt quan tâm, chăm lo phát triển giáo dục và đào tạo, mong muốn đổi mới căn bản, toàn diện để xây dựng nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp, dạy tốt, học tốt, quản lý tốt; có cơ cấu và phương thức giáo dục hợp lý, gắn với xây dựng xã hội học tập; bảo đảm các điều kiện nâng cao chất lượng; chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế hệ thống giáo dục và đào tạo; giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa và bản sắc dân tộc.
Dù đã từng bước khẳng định được vai trò, vị trí của mình song thực tế cho thấy nữ trí thức vẫn đối mặt những rào cản, thách thức, bất bình đẳng trong tham gia và thụ hưởng những thành tựu phát triển của xã hội; vẫn gặp nhiều trở ngại, hạn chế trên con đường phấn đấu.
Số nữ giới có trình độ chuyên môn cao, nghiệp vụ giỏi chưa nhiều; trình độ lý luận của nữ cán bộ, viên chức, người lao động không đồng đều, chiếm tỷ lệ còn thấp, chưa tương xứng với tiềm năng và những đóng góp to lớn của lực lượng lao động nữ trong ngành Giáo dục nói riêng và các lực lượng lao động nữ nói chung.
Công tác quy hoạch cán bộ nữ một số đơn vị có lúc, có nơi còn chưa được quan tâm đúng mức, dẫn đến thiếu cán bộ nữ kế cận cho các vị trí lãnh đạo, quản lý ở các cấp khác nhau.
Mặt khác, đâu đó vẫn còn định kiến, khuôn mẫu giới; sự khắt khe đối với phụ nữ còn tồn tại trong nhận thức chung của xã hội, nhận thức về bình đẳng giới trong các cấp ủy Đảng, chính quyền ở một số địa phương còn chưa đầy đủ, chưa thực sự quan tâm đến lồng ghép giới vào hoạch định và thực thi chính sách liên quan tới thúc đẩy và phát triển nguồn nhân lực nữ.
Ngoài ra, nữ trí thức chưa được bố trí, sử dụng hợp lý và nhất là chế độ đãi ngộ chưa tương xứng với đóng góp của họ. Khung chính sách, luật pháp về vai trò, vị thế của nữ trí thức trong sự phát triển bền vững còn chưa được thể hiện rõ nét. Hoạt động đào tạo nguồn nhân lực nữ chất lượng cao chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, chưa tạo được môi trường thuận lợi để phát huy sức sáng tạo, thu hút nhân tài….
Bên cạnh đó, cũng không thể không nhắc đến nguyên nhân do rào cản tâm lý, văn hoá truyền thống và những yếu tố gia đình, xã hội. Không ít nữ vẫn còn tư tưởng an phận, chưa sẵn sàng, chưa nỗ lực phấn đấu tham gia vào các cương vị lãnh đạo, quản lý… Đó chính là những thách thức, làm cản trở việc thực hiện quyền bình đẳng giới.
Chúng ta cần ghi nhớ lời dặn dò của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Bản thân phụ nữ thì phải cố gắng vươn lên. Ðó là một cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thật sự cho phụ nữ.
Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII đã nêu rõ: Phát huy truyền thống, tiềm năng, thế mạnh và tinh thần làm chủ, khát vọng vươn lên của các tầng lớp phụ nữ. Xây dựng người phụ nữ Việt Nam thời đại mới. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nữ, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế. Tăng cường các chương trình phát triển, hỗ trợ cập nhật tri thức, kỹ năng cho phụ nữ có hoàn cảnh khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi. Hoàn thiện và thực hiện tốt luật pháp, chính sách liên quan đến phụ nữ, trẻ em và bình đẳng giới...
Giai đoạn 2021-2025 và đến năm 2030, ngành Giáo dục hướng tới phát huy vai trò, thế mạnh của phụ nữ trong công tác, quản lý và nghiên cứu khoa học, xây dựng và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nữ đáp ứng yêu cầu đổi mới đất nước trong thời kỳ hội nhập và đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.
Xây dựng các chính sách và bảo đảm các điều kiện để nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là phụ nữ, trẻ em gái người dân tộc thiểu số, khuyết tật; thu hẹp khoảng cách về chất lượng giáo dục công tác xóa mù chữ đặc biệt là nữ vùng dân tộc.
Tạo điều kiện để phụ nữ, trẻ em gái được tham gia học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ; xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, an toàn, phòng, chống bạo lực học đường trên cơ sở giới; chú trọng hơn nữa việc quy hoạch cán bộ nữ, gắn quy hoạch với đào tạo, bồi dưỡng và bố trí sử dụng. Tôn vinh, khen thưởng những phụ nữ có nhiều đổi mới, sáng tạo trong quản lý, giảng dạy và học tập; có nhiều đóng góp cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo.
Để thực hiện tốt yêu cầu nêu trên, các cơ quan quản lý giáo dục, cơ sở giáo dục cần tổ chức triển khai có hiệu quả Quyết định số 383/QĐ-BGDĐT ngày 26/01/2022 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc ban hành Kế hoạch hành động vì sự tiến bộ phụ nữ và bình đẳng giới giai đoạn 2021 - 2030 với 07 nhóm nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu đã đặt ra nhằm tiếp tục thu hẹp khoảng cách giới, tạo điều kiện, cơ hội để phụ nữ và nam giới tham gia, tiếp cận và thụ hưởng bình đẳng trong lĩnh vực giáo dục, được phát triển toàn diện, đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, góp phần vào sự phát triển bền vững của đất nước.
Nhiều ý kiến cho rằng, bình đẳng giới trong giáo dục đào tạo ở giai đoạn hiện nay cũng cần gắn liền với trách nhiệm, quyền lợi, vị thế và cơ hội cho dù đó là nam hay là nữ... Thứ trưởng nghĩ sao về điều này?
Thứ trưởng Ngô Thị Minh: Vị thế của phụ nữ trên thế giới nói chung, ở Việt Nam nói riêng đã được cải thiện rất nhiều trong thời gian qua. Tại Việt Nam, chúng ta đã chứng kiến những tiến bộ rõ rệt đã đạt được về quyền và sự lãnh đạo của phụ nữ trong một số lĩnh vực, đáng chú ý nhất là quyền tiếp cận giáo dục, cải thiện sức khỏe bà mẹ, sự tham gia của phụ nữ trong lực lượng lao động. Chỉ số phát triển giới của Việt Nam đạt được khá cao so với các nước trong khu vực, khoảng cách bất bình đẳng giới được thu hẹp đáng kể trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Tuy vậy, đây vẫn còn là thách thức trong quá trình phát triển của nước ta.
Trong lĩnh vực giáo dục, nữ giới có nhiều đóng góp to lớn. Giáo viên, một chủ thể quan trọng của lĩnh vực này thì nữ giới chiếm tỷ lệ khá cao: Chiếm tỷ lệ gần như tuyệt đối ở bậc mẫu giáo; chiếm khoảng 70% bậc phổ thông; chiếm gần 50% giảng viên đại học, cao đẳng.
Giáo dục và đào tạo có vị trí, vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc. Trong suốt tiến trình cách mạng, Đảng và Nhà nước ta luôn khẳng định giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, được ưu tiên trước nhất, thậm chí đi trước một bước so với các chính sách phát triển kinh tế - xã hội khác. Với vị trí và vai trò quan trọng, giáo dục và đào tạo ngày càng được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm. Do đó, trách nhiệm của ngành Giáo dục đối với sự nghiệp trồng người vừa cao quý, vẻ vang nhưng rất nặng nề.
Một trong bốn mục tiêu tại Quyết định số 383/QĐ-BGDĐT ngày 26/01/2022 là tăng tỷ lệ nữ tham gia các vị trí quản lý, lãnh đạo trong các cơ sở giáo dục, các cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục và nghiên cứu khoa học.
Để đạt được mục tiêu này, cần tăng cường trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị, đặc biệt là người đứng đầu về công tác cán bộ nữ và thực hiện bảo đảm bình đẳng giới đối với nữ cán bộ, công chức, viên chức và nhân viên theo thẩm quyền.
Tạo cơ hội cho phụ nữ tham gia hoạch định các chính sách vĩ mô, góp phần cải thiện điều kiện sống và làm việc, nâng cao sức khỏe và phát huy trí tuệ, năng lực của phụ nữ trên các lĩnh vực của đời sống xã hội; bảo đảm sự tham gia bình đẳng của phụ nữ trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội; quan tâm bố trí, sử dụng cán bộ nữ nhằm nâng cao tỷ lệ nữ cán bộ lãnh đạo, quản lý trong các đơn vị, cơ sở giáo dục và đào tạo, nhất là các cơ quan quản lý giáo dục; tăng cường phối hợp tổ chức các phong trào thi đua yêu nước nhằm tạo động lực cho phụ nữ phát huy vai trò nòng cốt trong xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc.
Công tác tuyên truyền có vai trò quan trọng về bình đẳng giới, vậy Bộ Giáo dục và Đào tạo chú trọng vấn đề này như thế nào, thưa Thứ trưởng?
Thứ trưởng Ngô Thị Minh: Công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về giới và bình đẳng giới trong thời gian qua có chuyển biến tích cực trong các cơ quan, đơn vị, trường học, cơ sở giáo dục; đã có sự phối hợp đồng bộ giữa 3 môi trường giáo dục: nhà trường, gia đình và xã hội.
Nhiều chương trình truyền thông có hiệu quả đã khuyến khích thay đổi hành vi, thái độ về các vấn đề bình đẳng giới nhằm xóa bỏ định kiến giới, phân biệt đối xử, tư tưởng “trọng nam, khinh nữ” trong các cơ quan, đơn vị, trường học, cơ sở giáo dục và xã hội.
Tuy nhiên, công tác truyền thông ở một số đơn vị chưa hiệu quả, còn thiếu vắng các hoạt động và tài liệu hướng dẫn tổ chức truyền thông có sự tham gia của nam giới; việc tổ chức các lớp tập huấn về công tác Vì sự tiến bộ phụ nữ và bình đẳng giới vẫn hạn chế;
Còn ít các mô hình, hoạt động truyền thông về vấn đề về giới, bình đẳng giới và các vấn đề liên quan đến giới được kết hợp giữa học sinh, nhà trường, gia đình và cộng đồng xã hội;
Trên Cổng thông tin điện tử hay website, trang thông tin điện tử của các cơ quan quản lý giáo dục, cơ sở giáo dục ít thông tin về hoạt động của Ban vì sự tiến bộ phụ nữ và các gương điển hình tiên tiến đồng thời công khai với những vụ việc vi phạm về bình đẳng giới.
Thời gian tới, cần đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền về bình đẳng giới và vì sự tiến bộ phụ nữ, trong đó các cơ sở giáo dục, cơ quan quản lý giáo dục cần phải xây dựng kế hoạch, triển khai thực hiện Tháng hành động vì bình đẳng giới và phòng, chống bạo lực trên cơ sở giới hằng năm hiệu quả, sáng tạo, tiết kiệm, có sức lan tỏa và tăng thời lượng các hoạt động truyền thông trong thời điểm từ ngày 15/11 đến ngày 15/12; đa dạng hóa hình thức tuyên truyền, sử dụng mặt tích cực của mạng xã hội, các kênh truyền thông, tổ chức các hoạt động truyền thông phù hợp.
Xây dựng, đào tạo, nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ hoạt động về bình đẳng giới; ứng dụng công nghệ thông tin trong tổ chức các hoạt động truyền thông nhằm tăng hiệu quả và đáp ứng yêu cầu thực tiễn;
Tiếp tục tuyên truyền, phổ biến những nội dung về bình đẳng giới trong Bộ Luật Lao động năm 2019 bằng các hình thức phù hợp với từng đối tượng và điều kiện, tình hình thực tế của cơ quan, đơn vị, trường học, cơ sở giáo dục;
Tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về bình đẳng giới, phòng ngừa và ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới trên các phương tiện thông tin đại chúng và lồng ghép trong các hoạt động của cơ quan, đơn vị với hình thức phù hợp nhằm nâng cao nhận thức, thực hành về bình đẳng giới trong cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên ngành Giáo dục và học sinh, sinh viên;
Tuyên truyền giới thiệu các mô hình tiêu biểu, nhân rộng những điển hình tốt, người có uy tín, ảnh hưởng tích cực trong các đơn vị, trường học và cộng đồng, thu hút sự tham gia của nam giới, trẻ em trai trong thực hiện bình đẳng giới; tuyên truyền phổ biến pháp luật để lao động nữ có đầy đủ hiểu biết pháp luật và các quy định liên quan đến lao động nói chung và lao động nữ nói riêng.
Đặc biệt, tăng cường tuyên truyền cho chính bản thân nữ cán bộ, nhà giáo, người lao động cần nhận thức rõ về vai trò, vị trí của mình trong đời sống gia đình và ngoài xã hội, từ đó không ngừng phấn đấu nâng cao giá trị bản thân; Giáo dục về yêu cầu phẩm chất đạo đức phụ nữ Việt Nam thời kỳ mới với tám chữ: “Tự tin - Tự trọng - Trung hậu - Đảm đang".
Trân trọng cảm ơn Thứ trưởng Ngô Thị Minh!