Sớm ban hành quy hoạch mạng lưới CSGDĐH để thực hiện nội dung 4 của Kết luận 91

17/09/2024 09:26
Tường San

GDVN -Theo lãnh đạo một số CSGDĐH, muốn đẩy mạnh KHCN, đổi mới sáng tạo, ... theo Nội dung 04 tại Kết luận số 91, phải sớm ban hành quy hoạch mạng lưới CSGDĐH .

Nội dung thứ 04 tại Kết luận số 91-KL/TW của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI "Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế" nêu:

"Tập trung đầu tư chiều sâu, cơ sở vật chất, nguồn nhân lực chất lượng cao đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập ở một số ngành, nghề, lĩnh vực mang tầm cỡ khu vực và quốc tế nhằm tạo đột phá, chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện về chất lượng đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao gắn với nghiên cứu, phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, chuyển đổi số quốc gia và hội nhập quốc tế; chú trọng các ngành, lĩnh vực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế tri thức, kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, nhất là các ngành khoa học cơ bản, kỹ thuật, công nghệ và các ngành mới như trí tuệ nhân tạo, khoa học dữ liệu, bán dẫn,..."

Trước nội dung này, lãnh đạo một số cơ sở giáo dục đại học cho rằng, đây là những nhiệm vụ quan trọng của mỗi nhà trường. Tuy nhiên, cần sớm ban hành quy hoạch mạng lưới các cơ sở giáo dục đại học làm tiền đề thúc đẩy, thực hiện được những nhiệm vụ ấy.

Quy hoạch mạng lưới các cơ sở giáo dục đại học là vô cùng cần thiết

Chia sẻ với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Võ Văn Thắng – Hiệu trưởng Trường Đại học An Giang, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh cho biết, thực hiện Kết luận số 91, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh đã xây dựng Đề án đào tạo nguồn nhân lực ngành bán dẫn, AI; Đề án chuyển đổi số. Đến thời điểm hiện tại, những đề án này đã và đang được triển một cách tích cực, nhanh chóng tại các đơn vị đào tạo tại cơ sở. Với với tiềm lực mạnh trong đào tạo của các trường đại học thành viên, chắc chắn nguồn nhân lực này sẽ đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chuyển đổi số và hội nhập quốc tế đất nước trong tương lai.

Là một trường thành viên của Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, thầy Thắng thông tin, Trường Đại học An Giang đã triển khai nhiều giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên và viên chức quản lý. Nhờ vậy, tỷ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ đã tăng từ 18,1% lên 25,8%, trong khi tỷ lệ giảng viên/sinh viên chính quy của trường đạt 1/18, vượt mục tiêu ban đầu (1/20).

Trường cũng cử 52 viên chức đi đào tạo tiến sĩ và phát triển các đề án quan trọng như VNU350; Hỗ trợ đào tạo tiến sĩ giai đoạn 2024-2030; Chương trình tăng cường ngoại ngữ cho 36 giảng viên. Hiện tại, trường có 65 nghiên cứu sinh đang theo học, bao gồm 44 trong nước và 21 ngoài nước.

Sinh-vien-AGU-trong-gio--thuc-hanh-thi-nghiem.jpg
Sinh viên Trường Đại học An Giang, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh trong giờ học (Ảnh: NVCC).

Ngoài việc nâng cao chất lượng nhân lực, Trường Đại học An Giang còn đẩy mạnh đầu tư cơ sở vật chất và phát triển nghiên cứu khoa học, đặc biệt là ứng dụng công nghệ liên ngành để giải quyết các vấn đề quan trọng như phát triển nông nghiệp bền vững, công nghiệp sinh học và giá trị chuỗi sản xuất nông nghiệp.

Cũng theo thầy Thắng, để thực hiện được nội dung 04 theo Kết luận số 91 của Bộ Chính trị, việc sớm ban hành bản quy hoạch mạng lưới các cơ sở giáo dục đại học là rất cần thiết để định hướng phát triển và tối ưu hóa nguồn lực.

Có thể thấy, một bản quy hoạch chi tiết sẽ giúp xác định rõ vai trò và mục tiêu của từng trường đại học. Từ đó, tránh tình trạng đầu tư dàn trải hoặc trùng lặp giữa các cơ sở. Hơn nữa, điều này cũng cho phép tập trung nguồn lực tài chính, nhân lực và cơ sở vật chất vào những ngành nghề trọng điểm, phù hợp với nhu cầu phát triển quốc gia và xu thế toàn cầu.

Không những vậy, việc quy hoạch còn tạo điều kiện thúc đẩy sự liên kết giữa các trường đại học và doanh nghiệp, tăng cường chất lượng đào tạo và nghiên cứu, đồng thời góp phần vào sự phát triển bền vững của hệ thống giáo dục trong bối cảnh hội nhập và cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.

Cũng theo thầy Thắng, việc có bản quy hoạch mạng lưới các cơ sở giáo dục đại học sẽ gia tăng hiệu quả đầu tư vào chiều sâu, cơ sở vật chất, và nguồn nhân lực chất lượng cao thông qua nhiều khía cạnh sau.

Thứ nhất, đối với việc tối ưu hóa nguồn lực, bản quy hoạch rõ ràng sẽ giúp xác định các ngành và lĩnh vực trọng tâm cần đầu tư, từ đó tránh sự lãng phí và trùng lắp. Theo đó, các cơ sở giáo dục đại học sẽ được đầu tư có chiều sâu vào những ngành mũi nhọn, đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước và thị trường lao động quốc tế, tạo ra hiệu quả cao trong việc sử dụng nguồn lực. Điều này cũng giúp kết nối chặt chẽ hơn giữa các cơ sở đào tạo và doanh nghiệp, mở ra cơ hội phát triển nguồn nhân lực đạt tiêu chuẩn quốc tế, phù hợp với nền kinh tế hiện đại và hội nhập.

Thứ hai, đối với việc phát triển cơ sở vật chất đồng bộ và hiện đại, các trường đại học sẽ được đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng phù hợp với nhu cầu đào tạo và nghiên cứu chuyên biệt. Điều này giúp cải thiện điều kiện học tập, giảng dạy, đồng thời nâng cao chất lượng giáo dục và nghiên cứu khoa học. Qua đó tạo nền tảng vững chắc cho việc đào tạo và phát triển nhân lực chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu thiết thực xã hội.

Thứ ba, đối với vấn đề tăng cường liên kết và hợp tác, bản quy hoạch mạng lưới sẽ tạo điều kiện thúc đẩy sự liên kết giữa các trường đại học trong và ngoài nước, cũng như giữa các trường với doanh nghiệp. Sự hợp tác này sẽ hỗ trợ nghiên cứu, chuyển giao công nghệ và tăng tính ứng dụng của các dự án nghiên cứu vào thực tế sản xuất. Qua đó, việc quy hoạch không chỉ giúp tăng cường hiệu quả đầu tư mà còn nâng cao tính ứng dụng thực tiễn, góp phần vào sự phát triển bền vững của hệ thống giáo dục đại học Việt Nam.

Để thực hiện hiệu quả việc quy hoạch mạng lưới các cơ sở giáo dục đại học, thầy Thắng cho rằng, cần ban hành khung chính sách quy hoạch cụ thể và nhất quán. Cụ thể, cần công bố một bản quy hoạch chi tiết về mạng lưới các cơ sở giáo dục đại học, xác định rõ các ngành nghề và lĩnh vực cần ưu tiên đầu tư. Quy hoạch phải dựa trên nhu cầu thực tế của thị trường lao động và xu hướng phát triển kinh tế - xã hội. Điều này giúp tạo điều kiện cho các trường đại học phát triển theo hướng chuyên môn hóa, nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu.

Hơn nữa, phải chú trọng đến việc tăng cường ngân sách cho giáo dục. Theo đó, cần hỗ trợ các trường đại học nâng cấp cơ sở vật chất và trang thiết bị hiện đại phục vụ cho đào tạo, nghiên cứu và chuyển giao công nghệ; đồng thời, cần phân bổ ngân sách hợp lý cho các ngành nghề trọng điểm và các trường có tiềm năng đạt tiêu chuẩn quốc tế. Việc này sẽ giúp các cơ sở giáo dục cải thiện chất lượng và đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế.

Ngoài ra, việc tăng cường hợp tác giáo dục cũng cần được chú trọng. Cụ thể, cần thúc đẩy việc nghiên cứu và điều chỉnh chương trình đào tạo để phù hợp hơn với nhu cầu phát triển của thị trường lao động. Đặc biệt, các ngành nghề mới như trí tuệ nhân tạo, công nghệ số và kinh tế tuần hoàn… cần được chú trọng. Việc này sẽ đảm bảo rằng, sinh viên được đào tạo theo các tiêu chuẩn hiện đại và sẵn sàng đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế toàn cầu.

“Để thực hiện các yếu tố cơ bản nói trên, các trường đại học rất cần một cơ chế, chính sách phù hợp nhằm “cởi trói” vì sự phát triển. Chúng ta nói nhiều về tự chủ đại học nhưng trên thực tế thì còn quá nhiều bất cập với nhiều điều ràng buộc trong khi đó, đây chính là điểm “then chốt” của sự “giải phóng tiềm năng” cho sự phát triển”, thầy Thắng bày tỏ.

Cùng bàn về nội dung trên, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Võ Thanh Tùng – Hiệu trưởng Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế bày tỏ, Việt Nam đang bước vào giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế một cách mạnh mẽ, toàn diện. Có thể nói, những thành tựu đạt được trong hơn 30 năm tiến hành đổi mới vừa qua đã cải thiện vị thế và hình ảnh của Việt nam trên trường quốc tế. Việt Nam đang là điểm đến hòa bình, năng động của đầu tư quốc tế, của các tập đoàn lớn, tiềm năng trở thành con hổ mới của khu vực châu Á.

Chính vì vậy, việc xác định đầu tư đào tạo trọng điểm có ý nghĩa quyết định trong việc xây dựng một Việt Nam mới đáp ứng cho giai đoạn tin học hóa, cách mạng công nghiệp 4.0 hay theo các sử gia, là thời đại hậu hiện đại. Bởi, chúng ta cần thẳng thắn nhìn nhận nguồn lực của đất nước hiện còn hạn chế. Trong khi đó, các quốc gia trên thế giới và trong khu vực như Indonesia, Ấn Độ, Thái Lan hay Malaysia... đang tiến hành cải tổ mạnh mẽ, công nghiệp hóa có trọng điểm và ra sức thu hút đầu tư FDI. Cuộc cạnh tranh khốc liệt nhưng tất yếu này giữa các quốc gia đòi hỏi sự chọn lựa và xác định những mũi đầu tư đào tạo trọng điểm. Nếu chọn đúng và đầu tư đúng, chúng ta mới có khả năng vươn lên, ngược lại, chúng ta có nguy cơ tụt hậu.

Trong bối cảnh cạnh tranh như vậy, theo thầy Tùng, quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục đại học là việc cấp thiết.

Tuy nhiên, việc xây dựng mới, mở rộng quy mô đào tạo cần có một chiến lược tổng thể mang tầm quốc gia, không được để các trường đại học phát triển theo khuynh hướng tự phát và cơ chế xin cho như hiện nay. Bởi, việc mở rộng quá nhiều trường đại học, trường nào cũng có ngành nghề đào tạo khá giống nhau đã dẫn đến việc phân tán nguồn lực, cạnh tranh không lành mạnh cũng như thiếu nguồn sinh viên đầu vào.

Cần có những cơ chế đặc thù cho khối trường đào tạo khoa học cơ bản

Để thực hiện được Nội dung 04 tại Kết luận số 91 của Bộ Chính trị, thầy Tùng mong rằng, Nhà nước và Bộ Giáo dục và Đào tạo nên sớm có chiến lược đầu tư phát triển đào tạo đại học công lập, tránh "bỏ rơi" các trường công lập trong nền kinh tế thị trường và sự cạnh tranh khốc liệt hiện nay.

unnamed (5) (1).jpg
Ảnh minh họa (Nguồn: Website Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế).

“Tự chủ là đúng nhưng không thể để vấn đề tự chủ đại học trở thành quá trình tư thục hóa đại học hay doanh nghiệp hóa trường đại học, dẫn đến đôi khi phải hạ mọi tiêu chuẩn giáo dục nhằm phục vụ lợi nhuận. Đặc biệt, những trường đại học công lập đào tạo khoa học cơ bản, một số khối ngành công nghệ và kỹ thuật, cần có những cơ chế đặc thù, đầu tư đặc biệt như khối sư phạm...

Như ý kiến của nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan từng phát biểu rằng: "khoa học cơ bản là chân đế của một nền khoa học và giáo dục", tôi cho rằng, đào tạo khoa học cơ bản tốt mới có thể phát triển nền khoa học, kinh tế của đất nước trong thời kỳ mới”, thầy Tùng nhấn mạnh.

Còn theo Tiến sĩ Lê Xuân Trường – Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, trong bối cảnh hiện nay, việc thực hiện những vai trò chuyển giao công nghệ, đổi mới sáng tạo, … như Nội dung thứ 04 tại Kết luận số 91 của Bộ Chính trị đã nêu nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội đất nước, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao là nhiệm vụ của các cơ sở giáo dục đại học.

Và việc sớm có bản quy hoạch mạng lưới các sở giáo dục đại học sẽ là tiền đề để các cơ sở giáo dục đại học thực hiện những nhiệm vụ này.

Thầy Trường lưu ý, bản quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục đại học cần phải dự đoán được thời gian tới chúng ta sẽ cần có bao nhiêu trường, cần bao nhiêu ngành nghề để đáp ứng đủ nguồn nhân lực cho thị trường lao động và xã hội.

Không những vậy, bản quy hoạch phải dự đoán được trong tương lai những ngành nào sẽ cần nhân lực và nhân lực cần đạt được năng lực thế nào, chiều sâu về kỹ năng ra sao? Hơn nữa, quy hoạch còn cần phụ thuộc vào sự phát triển kinh tế, xã hội của từng vùng. Bản thân mỗi cơ sở giáo dục cũng phải tiếp tục đầu tư sâu về cơ sở vật chất, đội ngũ cán bộ giảng viên, đào tạo nguồn nhân lực vừa phải có chiều sâu, chiều rộng, có sự đột phá để thúc đẩy đổi mới sáng tạo.

Tường San