Vừa qua, Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức Hội nghị tổng kết công tác xã hội hóa về kiên cố hóa trường lớp học và nhà công vụ cho giáo viên giai đoạn 2013 - 2023, nhiệm vụ và giải pháp trong thời gian tới.
Trên cơ sở đó, Bộ chỉ ra những giải pháp thiết thực để khắc phục các hạn chế còn tồn tại. Trong đó, cần hoàn thiện thể chế và chính sách hỗ trợ; rà soát, cập nhật quy định pháp lý liên quan đến xã hội hóa giáo dục để bảo đảm sự phù hợp với thực tiễn. Các văn bản như Luật Giáo dục, Nghị định 69/2008/NĐ-CP cần được điều chỉnh để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc huy động nguồn lực từ xã hội.
Đặc biệt, ở các khu vực miền núi, vùng đồng bào dân tộc như miền núi phía Bắc, Tây Nguyên và Đồng bằng sông Cửu Long, Chính phủ cần ban hành chính sách hỗ trợ đặc thù nhằm thúc đẩy đầu tư, ưu đãi về đất đai, miễn giảm thuế và hỗ trợ tín dụng để thu hút các nhà đầu tư vào việc xây dựng cơ sở giáo dục.
Tỷ lệ kiên cố hóa trường lớp học ở vùng khó khăn còn hạn chế
Theo đánh giá của Bộ Giáo dục và Đào tạo, hiện nay, tỷ lệ kiên cố hóa trường lớp học ở nước ta bình quân đạt 86%, rất cao so với 10 năm trước. Tuy nhiên, số chưa kiên cố hóa lại chủ yếu tập trung ở các tỉnh khu vực miền núi, vùng đồng bào dân tộc và vùng khó khăn như miền núi phía Bắc, Tây Nguyên, Trung Bộ và Tây Nam Bộ.
Mặt khác, vì số trường học trong cả nước rất lớn (trên 53.000 trường học), trong khi nguồn lực còn hạn chế, phải tập trung đầu tư vào nhiều hạng mục khác nhau. Vì vậy, việc kiên cố hóa trường học luôn luôn cần sự chung tay của toàn xã hội và cộng đồng.
Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, cô Nguyễn Thị Xuân Hương - Hiệu trưởng Trường Trung học phổ thông Lê Quý Đôn, tỉnh Đăk Lăk cho biết: Chủ trương hoàn thiện thể chế, chính sách hỗ trợ và rà soát, cập nhật quy định pháp lý liên quan đến xã hội hóa giáo dục là một giải pháp rất phù hợp, thiết thực và đóng vai trò quan trọng. Song, việc thực hiện kiên cố hóa ở một số đơn vị giáo dục thực tế vẫn còn khó khăn, vướng mắc.
Tại ở địa bàn khu vực Tây Nguyên, trong khi khả năng tiếp cận nguồn lực xã hội hóa để đầu tư vào xây dựng cơ sở giáo dục còn hạn chế, thì nhu cầu kiên cố hóa cho cơ sở hạ tầng, trường lớp cho người học lại rất lớn. Qua mỗi kỳ học, các trang thiết bị, nhà đa năng, nhà xe, thư viện,... ngày càng xuống cấp, đòi hỏi nhà trường phải tu bổ, sửa chữa, nâng cấp hoặc thay mới.
Đặc biệt, Chương trình Giáo dục phổ thông 2018 đòi hỏi cơ sở đào tạo cần trang bị, vận dụng đầy đủ các phương tiện công nghệ thông tin, thiết bị kỹ thuật điện tử hiện đại nhằm phục vụ cho quá trình giảng dạy của thầy cô và phát triển toàn diện các kỹ năng của học sinh.
Thế nhưng, theo thời gian, các thiết bị điện tử như máy in, tivi, máy tính, màn hình trình chiếu hay phòng thí nghiệm đều có thể bị hư hỏng, hao mòn công năng và cần bổ sung, sửa chữa. Mặt khác, đội ngũ bộ phận hành chính ở nhiều trường phổ thông tại khu vực vùng sâu, vùng xa còn mỏng, khó khắc phục việc tu bổ được nhanh chóng, kịp thời.
Tính đến những công trình phụ, cô Xuân Hương chia sẻ, nhà đa năng của trường hiện vẫn đang sử dụng theo mô hình cũ, hay đường điện nước đôi khi còn tình trạng hư hỏng, nhỏ giọt.
Cùng chia sẻ về vấn đề này, cô Nguyễn Thị Lương - Hiệu trưởng Trường Tiểu học và Trung học cơ sở xã Đăk Long, huyện Đăk Hà, tỉnh Kon Tum cho hay, nhà trường hiện nay còn tồn tại một số thách thức như phòng học nhờ, phòng học tạm, nhà công vụ cho thầy cô chưa được xây dựng.
Năm học 2024-2025, tỉnh Kon Tum huy động đầu tư kiên cố hóa cho 440 phòng học, nâng tỷ lệ phòng học kiên cố đạt gần 56%, tăng 6.4% so với năm 2021. Mặc dù tỷ lệ kiên cố hóa phòng học tại địa phương tăng dần qua từng năm, tuy nhiên vẫn còn nhiều điểm trường vùng sâu, vùng xa thiếu phòng học, nhà công vụ cho giáo viên, và tỷ lệ còn thấp so với các vùng khác trên cả nước.
Vì vậy, cô Lương bày tỏ mong muốn Nhà nước quan tâm đến nhà công vụ cho giáo viên, đặc biệt ở vùng Tây Nguyên, thầy cô có nhà ở cách xa điểm trường, nên giờ trưa mong muốn có được chỗ nghỉ ngơi đảm bảo sức khỏe, cũng như có thể xem thêm bài giảng, phục vụ tốt cho việc học tập của các em học sinh.
Theo bà Phạm Thị Trung - Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Kon Tum, tỷ lệ kiên cố hóa trường lớp của tỉnh địa phương này đạt 56%. Vì vậy, việc quan tâm đầu tư cơ sở vật chất, kiên cố hóa trường lớp học rất cần thiết, nhất là mong muốn bổ sung nhà công vụ cho giáo viên, để đáp ứng việc dạy học 2 buổi/ngày.
Cơ sở vật chất của các cơ sở giáo dục đã có sự chuyển biến tích cực, các địa phương đã ưu tiên đầu tư tăng cường các hạng mục như phòng học, phòng chức năng, thiết bị dạy học. Song, chúng ta hy vọng hơn nữa việc được xã hội hóa quan tâm tăng cường nâng cấp cơ sở vật chất theo hướng kiên cố hoá, chuẩn hoá và từng bước hiện đại hóa nhằm phục vụ cho giáo dục - đào tạo.
Cần tạo hành lang pháp lý thông thoáng thu hút các nhà đầu tư
Thời gian qua, Nhà nước và Chính phủ đã quan tâm, dành nhiều nguồn lực, chương trình, dự án, đề án, ngân sách cho công việc kiên cố hóa trường học. Các địa phương cũng cố gắng tạo hành lang pháp lý thông thoáng cho các doanh nghiệp đầu tư; quy hoạch và xác định rõ từng khu vực cần ưu tiên xã hội hóa, tuyên truyền về ý nghĩa của việc xã hội hóa cho giáo dục;...
Theo đại diện của một Sở Giáo dục và Đào tạo ở khu vực Tây Nguyên thông tin: Ngoài ngân sách nhà nước, địa phương cũng được sự hỗ trợ nhiều từ các nguồn lực của xã hội để xây dựng trường lớp khang trang hơn, mở rộng không gian học tập, trang bị thiết bị dạy học, đầu tư cơ sở vật chất, đặc biệt là các thiết bị hạ tầng, công nghệ thông tin nhằm phục vụ cho sự đổi mới chương trình giáo dục.
Các tỉnh ở Tây Nguyên đang nỗ lực lồng ghép, huy động nguồn lực từ chương trình mục tiêu quốc gia, nguồn xã hội hóa nhằm thực hiện mục tiêu đến năm 2030 đạt 100% tỷ lệ kiên cố hóa trường lớp, nhà công vụ cho giáo viên; qua đó phục vụ cho công tác đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục cho vùng dân tộc thiểu số miền núi.
Đồng tình với đề xuất Chính phủ cần có chính sách hỗ trợ đặc thù nhằm thúc đẩy đầu tư, ưu đãi để thu hút các nhà đầu tư vào việc xây dựng cơ sở giáo dục; cô Nguyễn Thị Xuân Hương kiến nghị 3 giải pháp giúp tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc huy động nguồn lực từ xã hội.
Một là, nên có những chủ trương đẩy mạnh thực hiện đầu tư, ưu đãi về đất đai, miễn giảm thuế và hỗ trợ tín dụng của các doanh nghiệp bằng việc thiết lập cơ chế giám sát chặt chẽ, huy động, sử dụng nguồn lực xã hội hóa, đảm bảo tính minh bạch, hiệu quả và tạo niềm tin cho các nhà đầu tư, các nhà hảo tâm.
Hai là, quy trình thực hiện xã hội hóa cần đơn giản hóa, giảm bớt thủ tục hành chính rườm rà, cồng kềnh, tạo sự khách quan, công tâm, tránh gây ra tiêu cực trong giáo dục; đặc biệt là thực hiện đầu tư trọng tâm, trọng điểm vào đúng cơ sở vật chất, trang thiết bị phù hợp với điều kiện tu bổ sửa chữa, sử dụng lâu dài của nhà trường.
Ba là, dư luận xã hội, các cơ quan báo chí - truyền thông cần tích cực lan tỏa, ủng hộ nhiều hơn những việc làm tốt, tấm gương sáng của các nhà giáo tâm huyết trong sự nghiệp giáo dục và đào tạo để tạo niềm tin vững chắc cho phụ huynh, cộng đồng, tổ chức doanh nghiệp và xã hội.
Theo Báo cáo tình hình phát triển giáo dục, đào tạo vùng Tây Nguyên giai đoạn 2011-2021 và nhiệm vụ, giải pháp phát triển giáo dục đào tạo đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 của Bộ Giáo dục và Đào tạo, tỷ lệ kiên cố hóa phòng học các tỉnh vùng Tây Nguyên tăng dần qua các năm, tuy nhiên vẫn thấp nhất so các vùng khác trong cả nước.
Giáo dục mầm non: tỷ lệ trung bình phòng học/lớp là 0,99; sĩ số trẻ em trung bình/lớp là 27,9 trẻ; tỷ lệ kiên cố hóa 45,7% (thấp hơn bình quân cả nước 33,8%). Trong đó, Kon Tum là địa phương tỷ lệ kiên cố hóa thấp nhất cả nước (17,1%).
Giáo dục tiểu học: tỷ lệ trung bình phòng học/lớp là 0,98; sĩ số học sinh trung bình/lớp là 29,81 học sinh; tỷ lệ kiên cố hóa 59,6% (thấp hơn bình quân cả nước 22,4%). Trong đó, Kon Tum (48,2%), Đắk Lắk (46,5%) là 2 địa phương có tỷ lệ kiên cố hóa thấp nhất cả nước.
Giáo dục trung học cơ sở: tỷ lệ trung bình phòng học/lớp là 0,89; sĩ số học sinh trung bình/lớp là 36,71 học sinh; tỷ lệ kiên cố hóa 85,8% (thấp hơn bình quân cả nước 7,9%). Trong đó, Đắk Nông (81%), Đắk Lắk (79,6%) là 2 địa phương có tỷ lệ kiên cố hóa thấp nhất cả nước.
Giáo dục trung học phổ thông: tỷ lệ trung bình phòng học/lớp là 0,97; sĩ số học sinh trung bình/lớp là 39,27 học sinh; tỷ lệ kiên cố hóa 98,4% (cao hơn bình quân cả nước 2%). Trong đó, Gia Lai có tỷ lệ kiên cố hóa đạt 100%. [1]
Tài liệu tham khảo:
[1] https://giaoduc.net.vn/ty-le-kien-co-hoa-phong-hoc-vung-tay-nguyen-thap-nhat-ca-nuoc-post234007.gd