Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Thông tư số 15/2024/TT-BGDĐT quy định về quản lý đề tài khoa học và công nghệ cấp bộ của Bộ Giáo dục và Đào tạo, thay thế Thông tư số 11/2016/TT-BGDĐT. Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ngày 05/01/2025.
So với thông tư cũ, Thông tư số 15/2024/TT-BGDĐT có một số điểm mới như: Thay đổi tiêu chuẩn chủ nhiệm đề tài khoa học và công nghệ cấp bộ, bổ sung tiêu chí xác định đề tài cấp bộ, giới hạn số lượng thành viên tham gia thực hiện đề tài,...
Những thay đổi mang tính phù hợp và tiến tới chuẩn quốc tế
Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Duy Quyết - Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Thể dục Thể thao Hà Nội chia sẻ: “Tại khoản 1, Điều 5 Thông tư số 15/2024/TT-BGDĐT quy định: “"Chủ nhiệm đề tài cấp bộ là giảng viên cơ hữu, nghiên cứu viên cơ hữu của tổ chức chủ trì, có trình độ từ thạc sĩ trở lên, có chuyên môn trong lĩnh vực khoa học và công nghệ phù hợp với nội dung của đề tài, có ít nhất 1 công trình công bố trên tạp chí khoa học trong hoặc ngoài nước thuộc lĩnh vực nghiên cứu của đề tài trong thời gian 3 năm gần nhất”.
Quy định này hoàn toàn phù hợp với thông lệ quốc tế và phù hợp với các văn bản quy định về hoạt động khoa học và công nghệ, sở hữu trí tuệ.
Việc thay đổi là cần thiết, để có những ảnh hưởng tích cực tới các cơ sở giáo dục thông qua tuyển chọn được chủ nhiệm đề tài có uy tín, có các kết quả nghiên cứu khoa học được công bố phù hợp với lĩnh vực nghiên cứu của đề tài cấp bộ”.
Theo thầy Quyết, việc quy định mỗi đề tài cấp bộ có tối đa 10 thành viên tham gia thực hiện, đồng thời, nâng cao tiêu chuẩn đối với chủ nhiệm đề tài cấp bộ là hoàn toàn phù hợp.
“Sự thay đổi này đã quy định cụ thể, rõ ràng hơn Thông tư 11/2016/TT-BGDĐT (trước đó, chỉ quy định chung, không khống chế số lượng thành viên tham gia nghiên cứu).
Hiện nay, tỉ lệ đội ngũ của Trường Đại học Sư phạm Thể dục Thể thao Hà Nội đáp ứng những yêu cầu tiêu chuẩn theo Thông tư số 15 đạt khoảng 90%.
Việc nâng cao tiêu chuẩn thành viên tham gia thực hiện sẽ có những tác động tích cực tới chất lượng nghiên cứu khoa học. Với số lượng thành viên cụ thể, nhiệm vụ của mỗi thành viên sẽ được chủ nhiệm đề tài tính toán, phân công cho từng thành viên, để đạt được kết quả nghiên cứu. Từ đó, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo. Thực tế đã chứng minh, sự tác động của hoạt động nghiên cứu khoa học đối với công tác giáo dục và đào tạo tại các cơ sở giáo dục đại học” - thầy Quyết nhấn mạnh.
Ủng hộ những thay đổi trong Thông tư số 15, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Mai Xuân Dũng - Giảng viên cao cấp, Khoa Hóa học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 cũng bày tỏ: “Việc thực hiện thành công một đề tài hay là một nhiệm vụ khoa học công nghệ cần đảm bảo một số yếu tố quan trọng để đạt được kết quả mong muốn. Những yếu tố này đóng vai trò quyết định trong việc đánh giá khả năng thành công của nhiệm vụ.
Thứ nhất, năng lực nghiên cứu: năng lực được thể hiện qua các công trình đã được công bố trước đó. Hiện nay, Việt Nam đang khuyến khích mạnh mẽ việc công bố quốc tế, vì vậy, việc một cá nhân hoặc tổ chức có các công trình nghiên cứu được công bố trong vòng 3 năm gần đây là bằng chứng rõ ràng cho thấy năng lực và sự đóng góp vào lĩnh vực nghiên cứu.
Thứ hai, tiềm lực khoa học và công nghệ của đơn vị thực hiện: bao gồm cơ sở vật chất, trang thiết bị, hệ thống hỗ trợ nghiên cứu tại đơn vị giáo dục hoặc đào tạo. Nếu một cá nhân chỉ là giảng viên thỉnh giảng hoặc không thuộc biên chế cơ hữu, sẽ khó có điều kiện sử dụng các nguồn lực sẵn có tại trường hoặc cơ sở giáo dục. Do đó, việc đánh giá tiềm lực khoa học và công nghệ của đơn vị thực hiện là hoàn toàn hợp lý và cần thiết”.
Thầy Dũng cũng chia sẻ thêm từ kinh nghiệm bản thân: “Đến thời điểm hiện tại, tôi đã có 2 lần thực hiện đề tài khoa học công nghệ cấp bộ của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Qua quá trình triển khai, tôi nhận thấy, các quy định hiện tại không có quá nhiều thay đổi so với trước đây và trong thực tế thực hiện cũng không gặp phải khó khăn nào. Điều này cho thấy, những thay đổi trong quy định là hoàn toàn hợp lý, mang tính cải tiến và phù hợp với định hướng phát triển chung”.
Cần tăng cường cơ chế “khoán” kinh phí và hỗ trợ tốt hơn cho nghiên cứu khoa học
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Duy Quyết chia sẻ thêm: “Những yêu cầu về kết quả của đề tài cấp bộ tại Thông tư số 15 nêu cụ thể về sản phẩm khoa học, sản phẩm đào tạo và sản phẩm ứng dụng, đã phù hợp với định hướng nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, nghiên cứu khoa học cấp bộ. Các yêu cầu về kết quả của đề tài góp phần làm các đề tài cấp bộ được công bố rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng, ứng dụng kết quả nghiên cứu, nâng cao hiệu quả giáo dục và đào tạo.
Tôi tin rằng, với những thay đổi đó, chất lượng giáo dục, đào tạo và nghiên cứu khoa học sẽ ngày càng được nâng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập quốc tế.
Để hoạt động nghiên cứu khoa học trong các cơ sở giáo dục đại học đem lại những kết quả tốt, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo; đồng thời, nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội, Bộ Giáo dục và Đào tạo cần thường xuyên rà soát các chính sách về khoa học và công nghệ; Bộ Tài chính; Bộ Giáo dục và Đào tạo; Bộ Khoa học và Công nghệ cần tăng cường và tạo cơ chế “khoán” kinh phí cho hoạt động nghiên cứu khoa học, để đảm bảo việc thanh toán trong quản lý hoạt động nghiên cứu thuận lợi hơn”.
Cùng bàn về vấn đề này, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Xuân Trường - Viện trưởng Viện Sinh học nông nghiệp, Học viện Nông nghiệp Việt Nam cho biết: “Trong ngành giáo dục, việc giảng dạy luôn gắn liền với nghiên cứu, đây là yếu tố vô cùng quan trọng. Về kết quả nghiên cứu, có thể được công bố trên các tạp chí trong nước cũng như đăng tải trên các tạp chí quốc tế. Nhìn chung, dù kinh phí của Bộ Giáo dục và Đào tạo không lớn, nhưng đã đáp ứng được nhu cầu cần thiết để thúc đẩy hoạt động nghiên cứu và phát triển trong ngành giáo dục.
Hỗ trợ nghiên cứu cho các thầy cô không chỉ là cung cấp điều kiện cần thiết để họ thực hiện các ý tưởng khoa học, mà còn tạo động lực thúc đẩy cho sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh phát triển theo các hướng mới.
Nghiên cứu giúp kết nối chặt chẽ giữa lý thuyết và thực hành, bổ trợ lẫn nhau để nâng cao chất lượng đào tạo. Vì vậy, cần có kinh phí hợp lý để hỗ trợ các thầy cô trong quá trình thực hiện nghiên cứu.
Đặc biệt, cần quan tâm đến đội ngũ giảng viên trẻ, những người vừa được đào tạo bài bản từ nước ngoài hoặc mới hoàn thành chương trình nghiên cứu sinh tiến sĩ. Việc tạo điều kiện để họ tiếp tục các công trình nghiên cứu hoặc nối tiếp các hướng nghiên cứu đã thực hiện trước đây, sẽ giúp xây dựng những mạch nghiên cứu liên tục và hiệu quả hơn. Điều này không chỉ nâng cao năng lực nghiên cứu cá nhân, mà còn góp phần phát triển bền vững cho nền khoa học giáo dục trong nước.
Tiếp đó, khi các đề tài nghiên cứu đã được thực hiện và có các sản phẩm khoa học công nghệ, cần tạo điều kiện để các thầy cô tiếp tục phát triển các sản phẩm đó, gắn kết nghiên cứu khoa học với thực tiễn sản xuất. Việc này không chỉ giúp nâng cao giá trị ứng dụng của các kết quả nghiên cứu, mà còn đóng góp thiết thực vào giải quyết các vấn đề trong thực tế”.
Ngoài ra, thầy Trường cũng trăn trở: “Một trong những vấn đề lớn của khoa học công nghệ là việc chuyển giao sản phẩm nghiên cứu ra thực tiễn còn gặp nhiều khó khăn; đặc biệt liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ, thu phí bản quyền hoặc chia sẻ lợi nhuận. Điều này gây cản trở đến việc đưa sản phẩm nghiên cứu ra thực tiễn sản xuất, dù hiệu quả xã hội mang lại rất đáng kể.
Các nhà khoa học đã cống hiến, hy sinh rất nhiều, trong khi nguồn kinh phí hỗ trợ từ Nhà nước thường chỉ đủ một phần nhỏ. Nhiều nhà nghiên cứu phải tự tìm kiếm thêm nguồn lực để hoàn thiện sản phẩm.
Khi sản phẩm khoa học (chẳng hạn như giống cây trồng mới) được ứng dụng rộng rãi, lợi ích xã hội là vô cùng lớn như: tăng năng suất, cải thiện đời sống nông dân, đóng góp vào nguồn thu thuế của Nhà nước. Đây là cách gián tiếp mà nghiên cứu khoa học mang lại lợi ích cho Nhà nước.
Tuy nhiên, việc đặt nặng vấn đề thu phí bản quyền hoặc yêu cầu chia lợi nhuận từ các nhà khoa học khiến họ gặp nhiều khó khăn, thậm chí bế tắc trong quá trình chuyển giao công nghệ. Cần thay đổi cách nhìn nhận, xem xét khoa học công nghệ như một phần đóng góp dài hạn”.